I. LỜI GIỚI THIỆU.
Kể từ lâu, năm 1957 đã có quân của LLÐB/HK tại Việt-Nam, lúc đó họ chỉ làm nhiệm-vụ huấn-luyện, cố-vấn và giúp-đỡ quân-đội VNCH. Các biệt-kích mũ xanh phải tình nguyện hai lần, lần đầu học nhẩy dù và sau đó học về LLÐB. Trong năm 1957, ngày 24 tháng sáu, liên-đoàn 1LLÐB được thành lập tại Okinawa và gửi sang Việt-Nam huấn luyện cho 58 quân nhân Việt-Nam tại Trung-tâm huấn-luyện Biệt-Ðộng-Ðội ở Đồng Đế Nha Trang. Những sĩ quan thụ huấn đó sau này trở thành huấn luyện viên hoặc cán bộ nồng cốt cho các đơn-vị đầu tiên của LLÐB/VN. Mười năm sau LLÐB cố-vấn và yểm trợ cho hơn 40.000 Dânsự Chiến-đấu, hoạt động trên khắp lãnh thổ miền nam Việt Nam.
II. PHÁT TRIỂN.
Trong năm 1959, 1960 với sự bành trướng của Việt cộng, gia tăng các vụ phá hoại, khủng bố gây nên tình trạng bất an nơi thôn quê, hẻo lánh. Quân đội Hoa Kỳ gửi thêm ba mươi huấn luyện viên LLÐB từ căn cứ Fort Bragg sang nam Việt Nam để tổ chức một chương trình huấn luyện cho QLVNCH.
Ngày 21 tháng chín 1961, tổng-thống John F. Kenedy tuyên bố sẽ tăng thêm ngân khoản viện trợ quân-sự, kinh tế cho Việt Nam. Chính quyền Hoa-Kỳ lo ngại về vấn đề xâm nhập người và vũ-khí của quân cộng-sản vào miền nam, do đó phải tìm cách ngăn chặn sự xâm nhập này. Các toán A Lực-lượng Ðặc-biệt được giao phó cho trách nhiệm tổ chức và huấn-luyện những dân-tộc thiểu-số phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của địch từ bắc vào nam. Về sau những lực lượng võ trang này được gọi là Dân-sự Chiến-đấu.
Liên-đoàn 5 LLÐB/HK được gửi sang Việt Nam và hoàn toàn chịu trách nhiệm cho các hoạt-động, hành quân đặc biệt tại miền nam. Lực-lượngÐặc-biệt được Lục quân Hoa-Kỳ tổ chức nhằm thích ứng cho các cuộc hành quân ngoại lệ và đã được định nghiã như 'ba khía cạnh liên-hệ trong du kích chiến, trốn tránh và đào tẩu, gậy ông đập lưng ông chống lại kẻ thù'. Chiến tranh ngoại-lệ được định nghiã như sau ' Hoạt động ngay trong lòng địch, hoặc những nơi địch kiểm soát'.
Cơ-cấu tổ chức căn bản của Liên-đoàn Lực-lượng Ðặc biệt gồm có một bộ chỉ huy đầu não, ban chỉ huy các đại đội, ba đại-đội hoặc nhiều hơn, một đại đội truyền tin và một phi-đoàn yểm trợ. Các bộ, ban chỉ huy gồm đủ các ban tham-mưu để chỉ huy và theo-dõi, thêm phần quân-y,và đơn vị tiếp-tế thả dù. Ðạiđội LLÐB thường do một sĩ quan cấp bậc trung-tá chỉ huy, thường gồm có một ban tham mưu và một BCH hành-quân C, bộ chỉ huy này sẽ chỉ huy ba BCH/HQ B, mỗi BCH/HQ B sẽ chỉ huy bốn toán A. Toán A là một đơn-vị căn bản mười hai người của LLÐB.
III. LỰC LƯỢNG DÂN SỰ CHIẾN ÐẤU.
Có hai lý do cho việc tổ chức DSCÐ. Người Hoa Kỳ tin rằng nên võ trang nhóm dân tộc thiểu số để chống lại sự xâm nhập của quân cộng-sản. Lý do thứ hai, người Thượng và các sắc dân thiểu số là mục tiêu chính cho chủ thuyết tuyên truyền của cộng-sản, họ không hài lòng về chính quyền quốc-gia, rất dễ bị địch lợi dụng, tuyển mộ.
Vào tháng Chín 1962, bộ chỉ huy LLÐB tại Việt-Nam được thành lập và trực thuộc Bộ Chỉ-Huy Quân-Viện. Ðến tháng mười 1962, có tất cả hai mươi bốn toán LLÐB/HK hoạt động trên miền nam Việt- Nam. Tháng mười một 1962,LLÐB/HK tại Việt-Nam được tổ chức gồm có một BCH C, ba BCH B và hai mươi sáu toán A. Ngoài ra còn có một bộ chỉ huy đặt tại Saigon. BCH C không làm việc bình thường trên phương diện chỉ huy, điều hành mà làm nhiệm-vụ như phần mở rộng của BCH trung-ương.
Trong thời gian từ tháng mười hai 1962 đến tháng hai 1963, BCH/LLÐB/HK hoàn toàn chịu trách nhiệm chỉ huy các hoạt động của các toán A tại Việt-Nam. Lúc đó các toán A đã thiết lập các trại Dân-sự Chiến-đấu trên khắp bốn quân khu. Một BCH B được thành lập trên mỗi vùng chiến thuật để phối hợp với hệ thống chỉ huy của QLVNCH và chỉ-huy các toán A. Các toán A được xử dụng tạm thời lấy từ Liên-đoàn 1 từ Okinawa, và Liên-đoàn 5, 7 LLÐB từ Fort Bragg, North Carolina. Ðến tháng mười hai 1963, các toán A phối hợp với LLÐB Việt-Nam đã huấn luyện và võ trang cho 18000 người thuộc lực lượng xung kích và 43000 người phòng vệ dân-sự. Tháng hai 1963, bộ chỉ huy LLÐB/HK từ Saigon dời đi Nha-Trang do hai điều thuận-lợi, thứ nhất, Nha-Trang nằm vào khoảng giữa từ vĩ-tuyến 17 đến cuối miền nam, dễ điều hành các toán A nằm rải rác khắp miền nam Việt Nam. Thứ hai, vị trí nơi biển dễ nhận đồ trang bị, tiếp liệu đến từ Okinawa và phi trường, đường xá có sẵn cho vấn đề tiếp vận.
Cuối năm 1964, Lực lượng Dân-sự Chiến-đấu không còn là vấn đề phát triển nữa. Mục đích và nhiệm vụ cũng thay đổi, không ngoài việc phòng vệ xóm làng, các trại DSCÐ được xử-dụng làm căn cứ cho các cuộc hành quân tấn công vào sào huyệt địch. Sự thay đổi lớn thứ hai nhằm tăng phần hiệu qủa cho việc kiểmsoát biên giới, LLÐB/HK xây thêm một số trại Biên-phòng.
Trong cuộc hành quân Switchback (11-62 đến 0762), các hoạt động tấn công thuộc lực lượng xung-kích DSCÐ bao gồm phục-kích, tuần-tiễu, thám-sát trong khu vực trách nhiệm của mỗi trại. Ngoài ra những cuộc hành quân phối hợp với các đơn-vị VNCH bao gồm LL/DSCÐ thuộc nhiều trại. Trong tháng sáu, bốn đại đội xung kích DSCÐ lấy từ các trại Ðak-To, Plei-Mrong và Polei Krong phối hợp hành quân lùng địch.
Quân cộng-sản phản-ứng bằng cách pháo kích, quấy rối các trại biên-phòng. Trong cuộc hành-quân Switchback, các hoạt-động địch gia tăng, hầu hết các trại đều bị bắn quấy rối. Ngày 3 tháng giêng 1963, đặc-công cùng hai đại đội CSBV tấn công và tràn ngập trại Plei-Mrong. Vấn đề phòng thủ các trại biên-phòng được xét lại, Bộ chỉ-huy Quân Viện ra lệnh cho các toán A thiết lập thêm tuyến phòng thủ thứ hai cho tất cả các tiền đồn. LLÐB/HK được tăng cường thêm hai tiểu-đoàn Công-binh Hải-quân (Seabee) phụ gíup trong việc xây cất.
Việc xử-dụng LL/DSCÐ bao gồm các hoạt động tuần-tiễu, lục soát ra ngoài phạm vi trách nhiệm của trại thường cần có những căn cứ tiền phương và lực lượng tiếp-ứng. Một lực lượng xung-kích 20000 quân được thành lập bắt đầu từ tháng mười một 1963 và hoàn tất vào tháng bẩy năm 1964. Mỗi đại đội DSCÐ có 150 người gồm bộ chỉ huy 10 người và ba trung đội khinh-binh 35 người, trung đội súng nặng 35 người. Mỗi trại có quân số bốn đại đội. Hai đại đội hoạt động bên ngoài từ những căn cứ tiền phương, tung các trung đội và các toán viễn-thám năm người ra hoạt động.
Vào tháng giêng 1965, trước khi Hoa-Kỳ đem thêm quân vào chiến trường miền nam. Kế hoạch chống xâm nhập được xác định rõ ràng gửi đi từ bộ chỉ huy liên-đoàn 5 LLÐB/HK tới các BCH B và các toán A như sau:
Ðịnh nghiã:
Kế hoạch chốngxâm nhập của LLÐB là một chương trình hỗn hợp quân-sự và dân-sự vụ, được tổ chức nhằm thực hiện các mục tiêu sau đây:
(a) Loại trừ Việt cộng, thiết lập vùng an-ninh.
(b) Bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền quốc gia đối vớidân trong vùng.
(c) Ðộng viên những người dân hăng hái, sẵn sàng tham gia trong các chương trình của chính quyền quốc gia.
Kể từ lâu, năm 1957 đã có quân của LLÐB/HK tại Việt-Nam, lúc đó họ chỉ làm nhiệm-vụ huấn-luyện, cố-vấn và giúp-đỡ quân-đội VNCH. Các biệt-kích mũ xanh phải tình nguyện hai lần, lần đầu học nhẩy dù và sau đó học về LLÐB. Trong năm 1957, ngày 24 tháng sáu, liên-đoàn 1LLÐB được thành lập tại Okinawa và gửi sang Việt-Nam huấn luyện cho 58 quân nhân Việt-Nam tại Trung-tâm huấn-luyện Biệt-Ðộng-Ðội ở Đồng Đế Nha Trang. Những sĩ quan thụ huấn đó sau này trở thành huấn luyện viên hoặc cán bộ nồng cốt cho các đơn-vị đầu tiên của LLÐB/VN. Mười năm sau LLÐB cố-vấn và yểm trợ cho hơn 40.000 Dânsự Chiến-đấu, hoạt động trên khắp lãnh thổ miền nam Việt Nam.
II. PHÁT TRIỂN.
Trong năm 1959, 1960 với sự bành trướng của Việt cộng, gia tăng các vụ phá hoại, khủng bố gây nên tình trạng bất an nơi thôn quê, hẻo lánh. Quân đội Hoa Kỳ gửi thêm ba mươi huấn luyện viên LLÐB từ căn cứ Fort Bragg sang nam Việt Nam để tổ chức một chương trình huấn luyện cho QLVNCH.
Ngày 21 tháng chín 1961, tổng-thống John F. Kenedy tuyên bố sẽ tăng thêm ngân khoản viện trợ quân-sự, kinh tế cho Việt Nam. Chính quyền Hoa-Kỳ lo ngại về vấn đề xâm nhập người và vũ-khí của quân cộng-sản vào miền nam, do đó phải tìm cách ngăn chặn sự xâm nhập này. Các toán A Lực-lượng Ðặc-biệt được giao phó cho trách nhiệm tổ chức và huấn-luyện những dân-tộc thiểu-số phá hoại, ngăn chặn đường xâm nhập của địch từ bắc vào nam. Về sau những lực lượng võ trang này được gọi là Dân-sự Chiến-đấu.
Liên-đoàn 5 LLÐB/HK được gửi sang Việt Nam và hoàn toàn chịu trách nhiệm cho các hoạt-động, hành quân đặc biệt tại miền nam. Lực-lượngÐặc-biệt được Lục quân Hoa-Kỳ tổ chức nhằm thích ứng cho các cuộc hành quân ngoại lệ và đã được định nghiã như 'ba khía cạnh liên-hệ trong du kích chiến, trốn tránh và đào tẩu, gậy ông đập lưng ông chống lại kẻ thù'. Chiến tranh ngoại-lệ được định nghiã như sau ' Hoạt động ngay trong lòng địch, hoặc những nơi địch kiểm soát'.
Cơ-cấu tổ chức căn bản của Liên-đoàn Lực-lượng Ðặc biệt gồm có một bộ chỉ huy đầu não, ban chỉ huy các đại đội, ba đại-đội hoặc nhiều hơn, một đại đội truyền tin và một phi-đoàn yểm trợ. Các bộ, ban chỉ huy gồm đủ các ban tham-mưu để chỉ huy và theo-dõi, thêm phần quân-y,và đơn vị tiếp-tế thả dù. Ðạiđội LLÐB thường do một sĩ quan cấp bậc trung-tá chỉ huy, thường gồm có một ban tham mưu và một BCH hành-quân C, bộ chỉ huy này sẽ chỉ huy ba BCH/HQ B, mỗi BCH/HQ B sẽ chỉ huy bốn toán A. Toán A là một đơn-vị căn bản mười hai người của LLÐB.
III. LỰC LƯỢNG DÂN SỰ CHIẾN ÐẤU.
Có hai lý do cho việc tổ chức DSCÐ. Người Hoa Kỳ tin rằng nên võ trang nhóm dân tộc thiểu số để chống lại sự xâm nhập của quân cộng-sản. Lý do thứ hai, người Thượng và các sắc dân thiểu số là mục tiêu chính cho chủ thuyết tuyên truyền của cộng-sản, họ không hài lòng về chính quyền quốc-gia, rất dễ bị địch lợi dụng, tuyển mộ.
Vào tháng Chín 1962, bộ chỉ huy LLÐB tại Việt-Nam được thành lập và trực thuộc Bộ Chỉ-Huy Quân-Viện. Ðến tháng mười 1962, có tất cả hai mươi bốn toán LLÐB/HK hoạt động trên miền nam Việt- Nam. Tháng mười một 1962,LLÐB/HK tại Việt-Nam được tổ chức gồm có một BCH C, ba BCH B và hai mươi sáu toán A. Ngoài ra còn có một bộ chỉ huy đặt tại Saigon. BCH C không làm việc bình thường trên phương diện chỉ huy, điều hành mà làm nhiệm-vụ như phần mở rộng của BCH trung-ương.
Trong thời gian từ tháng mười hai 1962 đến tháng hai 1963, BCH/LLÐB/HK hoàn toàn chịu trách nhiệm chỉ huy các hoạt động của các toán A tại Việt-Nam. Lúc đó các toán A đã thiết lập các trại Dân-sự Chiến-đấu trên khắp bốn quân khu. Một BCH B được thành lập trên mỗi vùng chiến thuật để phối hợp với hệ thống chỉ huy của QLVNCH và chỉ-huy các toán A. Các toán A được xử dụng tạm thời lấy từ Liên-đoàn 1 từ Okinawa, và Liên-đoàn 5, 7 LLÐB từ Fort Bragg, North Carolina. Ðến tháng mười hai 1963, các toán A phối hợp với LLÐB Việt-Nam đã huấn luyện và võ trang cho 18000 người thuộc lực lượng xung kích và 43000 người phòng vệ dân-sự. Tháng hai 1963, bộ chỉ huy LLÐB/HK từ Saigon dời đi Nha-Trang do hai điều thuận-lợi, thứ nhất, Nha-Trang nằm vào khoảng giữa từ vĩ-tuyến 17 đến cuối miền nam, dễ điều hành các toán A nằm rải rác khắp miền nam Việt Nam. Thứ hai, vị trí nơi biển dễ nhận đồ trang bị, tiếp liệu đến từ Okinawa và phi trường, đường xá có sẵn cho vấn đề tiếp vận.
Cuối năm 1964, Lực lượng Dân-sự Chiến-đấu không còn là vấn đề phát triển nữa. Mục đích và nhiệm vụ cũng thay đổi, không ngoài việc phòng vệ xóm làng, các trại DSCÐ được xử-dụng làm căn cứ cho các cuộc hành quân tấn công vào sào huyệt địch. Sự thay đổi lớn thứ hai nhằm tăng phần hiệu qủa cho việc kiểmsoát biên giới, LLÐB/HK xây thêm một số trại Biên-phòng.
Trong cuộc hành quân Switchback (11-62 đến 0762), các hoạt động tấn công thuộc lực lượng xung-kích DSCÐ bao gồm phục-kích, tuần-tiễu, thám-sát trong khu vực trách nhiệm của mỗi trại. Ngoài ra những cuộc hành quân phối hợp với các đơn-vị VNCH bao gồm LL/DSCÐ thuộc nhiều trại. Trong tháng sáu, bốn đại đội xung kích DSCÐ lấy từ các trại Ðak-To, Plei-Mrong và Polei Krong phối hợp hành quân lùng địch.
Quân cộng-sản phản-ứng bằng cách pháo kích, quấy rối các trại biên-phòng. Trong cuộc hành-quân Switchback, các hoạt-động địch gia tăng, hầu hết các trại đều bị bắn quấy rối. Ngày 3 tháng giêng 1963, đặc-công cùng hai đại đội CSBV tấn công và tràn ngập trại Plei-Mrong. Vấn đề phòng thủ các trại biên-phòng được xét lại, Bộ chỉ-huy Quân Viện ra lệnh cho các toán A thiết lập thêm tuyến phòng thủ thứ hai cho tất cả các tiền đồn. LLÐB/HK được tăng cường thêm hai tiểu-đoàn Công-binh Hải-quân (Seabee) phụ gíup trong việc xây cất.
Việc xử-dụng LL/DSCÐ bao gồm các hoạt động tuần-tiễu, lục soát ra ngoài phạm vi trách nhiệm của trại thường cần có những căn cứ tiền phương và lực lượng tiếp-ứng. Một lực lượng xung-kích 20000 quân được thành lập bắt đầu từ tháng mười một 1963 và hoàn tất vào tháng bẩy năm 1964. Mỗi đại đội DSCÐ có 150 người gồm bộ chỉ huy 10 người và ba trung đội khinh-binh 35 người, trung đội súng nặng 35 người. Mỗi trại có quân số bốn đại đội. Hai đại đội hoạt động bên ngoài từ những căn cứ tiền phương, tung các trung đội và các toán viễn-thám năm người ra hoạt động.
Vào tháng giêng 1965, trước khi Hoa-Kỳ đem thêm quân vào chiến trường miền nam. Kế hoạch chống xâm nhập được xác định rõ ràng gửi đi từ bộ chỉ huy liên-đoàn 5 LLÐB/HK tới các BCH B và các toán A như sau:
Ðịnh nghiã:
Kế hoạch chốngxâm nhập của LLÐB là một chương trình hỗn hợp quân-sự và dân-sự vụ, được tổ chức nhằm thực hiện các mục tiêu sau đây:
(a) Loại trừ Việt cộng, thiết lập vùng an-ninh.
(b) Bảo đảm sự kiểm soát của chính quyền quốc gia đối vớidân trong vùng.
(c) Ðộng viên những người dân hăng hái, sẵn sàng tham gia trong các chương trình của chính quyền quốc gia.
Những mục tiêu nói trên có thể đạt được khi thi hành một trong ba nhiệm vụ sau:
(1) Kiểm soát và theo dõi biêngiới.
(2) Hoạt động nơi các đường xâm nhập.
(3) Hành quân nơi chiến khu, căn cứ của địch.
Bắt đầu từ năm này, quân cộng-sản đã thay đổi chiến thuật từ du-kích sang trận-địa chiến. Các hoạt động củaLLÐB được phân làm ba loại.Một, thiết lập thêm trại DSCÐ nhằm ngăn chặn mức độ chuyển quân, tiếp vận của địch, bỏ một số trại do áp lực quá nặng của địch và phòng thủ các trại dọc theo biên giới như A-Shau, Lang-Vei, Cồn-Thiên, Lộc-Ninh, Bù-Ðốp.
Thứ hai, mở các cuộc hành quân ngoại lệ như Hành-quân Delta trong vùng I chiến thuật. Hành quân Black-Jack 33 ở vùng III trong kế-hoạch Hành-quân Sigma. Ðây là cuộc hành quân đầu tiên phối hợp giữa đơn-vị du-kích lưu động và đơn vị xung-kích tiếp ứng. Hành-quân Black-Jack 41, hai đại đội xung-kích lưu động nhẩy dù xuống tấn công căn cứ địch trong vùng núi Thất Sơn dưới vùng IV. Một đơn-vị xung-kích khác tảo thanh nơi Suối Ðá trong vùng III loại khỏi vòng chiến một tiểu-đoàn Việt cộng trong hành quân Attleboro.
Cuối cùng là những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị chính-quy bạn. Hành quân Nathan Hale phối hợp giữa DSCÐ, sư-đoàn 1 Không-Kỵ và sư-đoàn 101 Dù Hoa-Kỳ. Hành quân Henry Clay và Thayer. Hành quân Rio Blanco ở vùng I bao gồmcác đơn-vị thuộc DSCÐ, Ðiạphương-quân, Biệt-động-quân Việt-Nam, Thuỷ quân lục chiến Ðại-Hàn, và TQLC/HK. Hành quân Sam Houston trên vùng II phối hợp giữa sư-đoàn4 Bộ-binh Hoa-Kỳ và DSCÐ.
IV. HÀNH QUÂN NGOẠI LỆ.
Với sự thành lập các đơn vị du-kích lưu-động và Hành quân Sigma, Omega trong thời gian từ tháng tám cho đến tháng mười năm 1966, khả năng về Chiến-tranh Ngoại lệ của LLÐB gia tăng. Một trong những đặc tính củaLLÐB là khả năng mở các cuộc hành quân ngắn hoặc lâu dài nơi vùng địch kiểm soát.
Lực-lượng Du-kích lưu-động được thành lập vào mùa thu 1966, cải tiến và phát triển từ quan niệm về đơn-vị xung kích lưu-động. Những đơn-vị du-kích này được tổ chức, huấn-luyện và trang-bị để hoạt-động xa, nơi Việt cộng hoặc Bắc quân xem như thiên đàng. Trang bị nhẹ, các quân nhân thuộc đơn-vị này xâm nhập vào vùng địch, do-thám đường mòn, tìm kiếm dấu vết, căn-cứ địch, thâu lượm tin tức tình báo về những cuộc chuyển quân của địch. Khi phát giác ra nơi đóng quân của địch, toán du-kích sẽ theo dõi các hoạt động của địch, phục kích lẻ-tẻ, quấy rối, đặt mìn bẫy. Trường hợp tìm thấy kho tiếp liệu, toán sẽ tìm cách phá hủy hoặc hướng dẫn phi cơ oanh kích.
Một đơn-vị du-kích thường được đưa vào vùng hoạt động bằng tất cả mọi phương tiện có sẵn. Khi đã vào vùng, đơnvị thực sự trở nên du-kích quân. Ðồ tiếp tế được thực hiện qua không trợ. Ðơn vị này thường hoạt động trong lòng địch một thời gian từ ba mươi đến sáu mươi ngày. Họ trở thành những 'Chủ nhân ông' trong khu vực hoạt động, được toàn quyền hành động kể cả vấn đề không trợ, để đạtmục tiêu. Ðể tránh bị lộ hành tung, đôi khi phải cho đồ tiếp tế vào bom Napalm giả do khu trục cơ A1E Skyraider thả xuống trong một phi vụ oanh kích gỉa tạo.
Ngoài việc phát triển đơn-vị du-kích cho mỗi vùng chiến thuật. Liên-đoàn 5 LLÐB/HK còn tổ chức thêm những cuộc hành quân ngoại-lệ khác như Hành-quân Omega và Sigma. Hai tổ chức hành quân trên làm tăng thêm khả năng viễn thám, thâu lượm tin-tức tình báo của liên-đoàn ngoài tổ chức Hành-quân Delta đã có sẵn. Mỗi tổ chức có quân số khoảng 600 người, gồm một đơn-vị viễn-thám và một đơnvị xung-kích tiếp-ứng, thêm một toán cố-vấn tổ chức như BCH B của LLÐB.
Hành quân Delta được đặt dưới quyền chỉ huy hỗn hợpLLÐB Việt-Mỹ và theo lệnh trực tiếp của Bộ Tổng-thammưu QLVNCH và BCH Quân Viện Hoa-Kỳ (MAC-V). Các toán hành quân Delta được tiểu-đoàn 91 Biệt-cách-dù sẵn sàng làm lực-lượng tiếp-ứng yểm-trợ. Các toán hành-quânOmega và Sigma được LLÐB trực tiếp chỉ huy và chỉ chịu trách nhiệm hoạt động ngoài vùng I và II chiến thuật. Các toán này được các đơn vị xung-kích lưu-động thuộc lực lượng DSCÐ yểm trợ.
V. HUẤN LUYỆN VÀ KHÔNG TRỢ
Chương trình huấn-luyện cho các cuộc hành-quân ngoại-lệ trước hết là phần huấn luyện về bộ-binh, kỹ thuật tác chiến trong vùngÐông-nam-Á. Những quân nhân được tuyển chọn cho hành-quân ngoại-lệ thường đã trải qua thời gian phục-vụ trong lực-lượng DSCÐ và đã có kinh nghiệm chiến-đấu. Phần huấn luyện kỹ thuật hành quân ngoại-lệ bắt đầu từ giai đoạn này. Ðầu tiên là phải qua khóa huấn luyện nhẩy-dù, sau đó là các môn học đặc biệt về hành quân như: di-chuyển lặng-lẽ, bí mật, phương-pháp tìm dấu vết, theo-dõi, cách xử-dụng bản đồ, điạ bàn, dụng-cụ làm dấu, những kỹ thuật xâm nhập, triệt-thoái vùng thámsát, hoạt-động, xử dụng các loại vũ-khí đặc biệt, cứu thương, kỹ thuật đột-kích, phục kích.
Chương trình huấn luyện kéo dài năm hay sáu tuần-lễ, sáu ngày một tuần và khoảng mười tiếng đồng hồ mỗi ngày. Các buổi huấn luyện trong căn-cứ và thực tập ngoài bãi tập.
Vấn đề hành-quân ngoại lệ rất cần phần không trợ. Phi đoàn không-yểm thuộc Lục quân Hoa-Kỳ biệt phái choLiên-đoàn 5 LLÐB đã yểm trợ trực tiếp bằng những trực thăng võ trang và chuyển vận. Ngoài ra Không lực Hoa-Kỳ cung cấp phương tiện chuyển vận, đổ quân cấp đơn-vị lớn và về tiếp liệu. Không lực Hoa-Kỳ và Việt Nam còn yểm trợ thêm về phần oanh-kích hoặc chuyển tiếp công-điện qua hệ thống truyền tin. Ngoài vùng I chiến thuật, máy bay của Thuỷ quân Lục chiến Hoa-Kỳ cũng cung cấp những phương tiện yểm trợ tương tự.
VI. SOẠN THẢO KẾ HOẠCH HÀNH QUÂN.
Chiến tranh ngoại lệ là một vai trò rất quan-trọng củaLLÐB trên chiến trường nam Việt Nam. Ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, mỗi cuộc hành quân đều được soạn thảo, điều nghiên kỹ-lưỡng trước khi thực hiện và lực lượng tham-dự được di chuyển đến căn cứ tiền phương trước khi ra tay. Thời gian dành cho soạn thảo kế hoạch, chuyển quân tuỳ theo mỗi loại hành quân và độ khẩn của cuộc hành quân.
Soạn thảo lệnh hành quân bắt đầu với đầy đủ chi tiết tình báo về khu vực hành quân. Mọi dữ kiện về điạ thế, thời tiết và những nơi tình nghi có quân địch đều được thâu thập và phân tích. Tất cả những chi tiết đó đều được ghi trên bản đồ, những lộ trình chính và phụ cho nhiệm-vụ trinh sát đều được chọn lựa và đánh dấu. Nguồn tin tức thường được lấy từ các bản báo cáo về tình-báo, không ảnh, thẩm vấn
tù binh, và những bản báo cáo của các đơn-vị bạn đã hành quân qua trước đây. Nếu cần, ban tham mưu soạn thảo lệnh hành quân bay những phi-vụ thám thính khu vực hoạt động trước. Những chuyến bay này rất quan trọng cho quyết định cuối cùng chọn điểm xâm nhập, triệt xuất, chính và phụ.
Khi việc soạn thảo, điều nghiên đã hoàn tất, lệnh hành-quân sẽ được ban ra. Kế tiếp là việc chuẩn bị hành quân, trường-hợp cần thiết phải chuyển quân, vật liệu đến một căn cứ tiền phương đã có không yểm. Nếu chỉ là một toán nhỏ, ít vật liệu, phi cơ trực thăng của Lục quân, TQLC/HK hoặc phi-cơ nhỏ được xử dụng. Nếu cuộc hành quân với quân số cấp đại đội hoặc lớn hơn sẽ được Không lực Hoa-Kỳ cung cấp với loại phi-cơ vận tải C-7A hoặc C130. Khi đến căn-cứ hành-quân tiền phương, đơn-vị sẽ bị thanh-tra để có thể trong vị thế sẵn sàng. Các sĩ quan thuộc quyền sẽ được nghe thuyết trình về mục đích, nhiệm-vụ của cuộc hành quân cùng vớí mệnh-lệnh chi tiết cho từng trung đội, tiểu-đội hoặc toán.
Trong những nhiệm-vụ thám sát, các phương-pháp, thủ tục cho mỗi hoạt-động sẽ được trình bầy chi-tiết tùy theo cuộc hành quân. Khi vào vùng địch, lúc ra khỏi phi-cơ, di chuyển trong khu vực hành quân, trường hợp chạm địch, và giờ giấc cho vấn đề triệt xuất.
Sự thành công trong chiến tranh ngoại lệ tùy thuộc rất nhiều vào yếu-tố bất ngờ. Thêm vào phần an-ninh của toán biệt-kích, nhiều lúc cần phải tìm cách đánh lừa địch quân. Lừa đối phương cũng là một phần quan trọng trong các cuộc hành quân. Tùy theo tình hình, thời tiết, mùa màng và quân số trong cuộc hành quân mà thực hiện các chuyến xâm nhập bằng đường bộ, không hoặc thủy. Tuy nhiên trên chiến trường Việt-Nam, hầu hết các cuộc xâm nhập, triệt xuất đều thực hiện bằng phương tiện trực thăng.
Kinh nghiệm cho biết, thời gian hữu hiệu nhất để thả toán xâm nhập vào lúc trời sắp tối, đủ thì-giờ cho toán lẩn vào bóng tối và trực thăng được bảo vệ bởi bầu trời đen. Tuy vậy, địch quân vẫn khám phá ra phương pháp thả toán của ta và tìm cách đối phó. Do đó phải đánh lừa địch về điểm thả quân, trực thăng sẽ đáp xuống ba chỗ hay hơn nữa trước khi thực sự thả toán. Ðiều này làm cho địch phân vân không biết đâu là điểm thả quân một cách chính xác. Một phương pháp khác là đoàn trực thăng ba chiếc bay thấp, nối đuôi nhau, chiếc bay đầu bất ngờ đáp xuống thả toán biệt-kích trong chớp nhoáng rồi bốc lên nhanh nối vào đuôi hai chiếc kia làm thành hợp đoàn ba chiếc trở lại.
Trong trường hợp thả toán bằng đường bộ, các toán 'Chạy đường mòn (Roadrunner), viễn thám xâm nhập vùng địch dễ dàng lúc trời tối hoặc ngay lúc ban ngày trong trường hợp căn cứ vẫn thường tung các toán ra tuần tiễu, lục soát mà không theo một phương hướng nhất định. Trong trường hợp khác, toán viễn thám đi xen vào với một đơn vị lớn. Khi thấy an toàn, toán biệt-kích lặng lẽ di chyển đến vùng hoạt động đã được trao phó nhiệm-vụ từ trước.
Tất cả mọi sự di-chuyển trong chiến tranh ngoại lệ đều được soạn thảo cẩn thận. Sự sống còn của một toán viễn thám nhỏ tùy thuộc vào mỗi cá nhân trong toán. Sự hiểu biết về nhiệm-vụ của từng người, đề cao cảnh giác, theo đúng thời khóa biểu lúc di chuyển. Trong kế hoạch hành quân đôi khi có dặn dò thêm trường hợp toán phải phân tán tạm thời trước áp lực của địch, thời gian, vị trí của điểm hẹn, tập-họp.
(1) Kiểm soát và theo dõi biêngiới.
(2) Hoạt động nơi các đường xâm nhập.
(3) Hành quân nơi chiến khu, căn cứ của địch.
Bắt đầu từ năm này, quân cộng-sản đã thay đổi chiến thuật từ du-kích sang trận-địa chiến. Các hoạt động củaLLÐB được phân làm ba loại.Một, thiết lập thêm trại DSCÐ nhằm ngăn chặn mức độ chuyển quân, tiếp vận của địch, bỏ một số trại do áp lực quá nặng của địch và phòng thủ các trại dọc theo biên giới như A-Shau, Lang-Vei, Cồn-Thiên, Lộc-Ninh, Bù-Ðốp.
Thứ hai, mở các cuộc hành quân ngoại lệ như Hành-quân Delta trong vùng I chiến thuật. Hành quân Black-Jack 33 ở vùng III trong kế-hoạch Hành-quân Sigma. Ðây là cuộc hành quân đầu tiên phối hợp giữa đơn-vị du-kích lưu động và đơn vị xung-kích tiếp ứng. Hành-quân Black-Jack 41, hai đại đội xung-kích lưu động nhẩy dù xuống tấn công căn cứ địch trong vùng núi Thất Sơn dưới vùng IV. Một đơn-vị xung-kích khác tảo thanh nơi Suối Ðá trong vùng III loại khỏi vòng chiến một tiểu-đoàn Việt cộng trong hành quân Attleboro.
Cuối cùng là những cuộc hành quân phối hợp với các đơn vị chính-quy bạn. Hành quân Nathan Hale phối hợp giữa DSCÐ, sư-đoàn 1 Không-Kỵ và sư-đoàn 101 Dù Hoa-Kỳ. Hành quân Henry Clay và Thayer. Hành quân Rio Blanco ở vùng I bao gồmcác đơn-vị thuộc DSCÐ, Ðiạphương-quân, Biệt-động-quân Việt-Nam, Thuỷ quân lục chiến Ðại-Hàn, và TQLC/HK. Hành quân Sam Houston trên vùng II phối hợp giữa sư-đoàn4 Bộ-binh Hoa-Kỳ và DSCÐ.
IV. HÀNH QUÂN NGOẠI LỆ.
Với sự thành lập các đơn vị du-kích lưu-động và Hành quân Sigma, Omega trong thời gian từ tháng tám cho đến tháng mười năm 1966, khả năng về Chiến-tranh Ngoại lệ của LLÐB gia tăng. Một trong những đặc tính củaLLÐB là khả năng mở các cuộc hành quân ngắn hoặc lâu dài nơi vùng địch kiểm soát.
Lực-lượng Du-kích lưu-động được thành lập vào mùa thu 1966, cải tiến và phát triển từ quan niệm về đơn-vị xung kích lưu-động. Những đơn-vị du-kích này được tổ chức, huấn-luyện và trang-bị để hoạt-động xa, nơi Việt cộng hoặc Bắc quân xem như thiên đàng. Trang bị nhẹ, các quân nhân thuộc đơn-vị này xâm nhập vào vùng địch, do-thám đường mòn, tìm kiếm dấu vết, căn-cứ địch, thâu lượm tin tức tình báo về những cuộc chuyển quân của địch. Khi phát giác ra nơi đóng quân của địch, toán du-kích sẽ theo dõi các hoạt động của địch, phục kích lẻ-tẻ, quấy rối, đặt mìn bẫy. Trường hợp tìm thấy kho tiếp liệu, toán sẽ tìm cách phá hủy hoặc hướng dẫn phi cơ oanh kích.
Một đơn-vị du-kích thường được đưa vào vùng hoạt động bằng tất cả mọi phương tiện có sẵn. Khi đã vào vùng, đơnvị thực sự trở nên du-kích quân. Ðồ tiếp tế được thực hiện qua không trợ. Ðơn vị này thường hoạt động trong lòng địch một thời gian từ ba mươi đến sáu mươi ngày. Họ trở thành những 'Chủ nhân ông' trong khu vực hoạt động, được toàn quyền hành động kể cả vấn đề không trợ, để đạtmục tiêu. Ðể tránh bị lộ hành tung, đôi khi phải cho đồ tiếp tế vào bom Napalm giả do khu trục cơ A1E Skyraider thả xuống trong một phi vụ oanh kích gỉa tạo.
Ngoài việc phát triển đơn-vị du-kích cho mỗi vùng chiến thuật. Liên-đoàn 5 LLÐB/HK còn tổ chức thêm những cuộc hành quân ngoại-lệ khác như Hành-quân Omega và Sigma. Hai tổ chức hành quân trên làm tăng thêm khả năng viễn thám, thâu lượm tin-tức tình báo của liên-đoàn ngoài tổ chức Hành-quân Delta đã có sẵn. Mỗi tổ chức có quân số khoảng 600 người, gồm một đơn-vị viễn-thám và một đơnvị xung-kích tiếp-ứng, thêm một toán cố-vấn tổ chức như BCH B của LLÐB.
Hành quân Delta được đặt dưới quyền chỉ huy hỗn hợpLLÐB Việt-Mỹ và theo lệnh trực tiếp của Bộ Tổng-thammưu QLVNCH và BCH Quân Viện Hoa-Kỳ (MAC-V). Các toán hành quân Delta được tiểu-đoàn 91 Biệt-cách-dù sẵn sàng làm lực-lượng tiếp-ứng yểm-trợ. Các toán hành-quânOmega và Sigma được LLÐB trực tiếp chỉ huy và chỉ chịu trách nhiệm hoạt động ngoài vùng I và II chiến thuật. Các toán này được các đơn vị xung-kích lưu-động thuộc lực lượng DSCÐ yểm trợ.
V. HUẤN LUYỆN VÀ KHÔNG TRỢ
Chương trình huấn-luyện cho các cuộc hành-quân ngoại-lệ trước hết là phần huấn luyện về bộ-binh, kỹ thuật tác chiến trong vùngÐông-nam-Á. Những quân nhân được tuyển chọn cho hành-quân ngoại-lệ thường đã trải qua thời gian phục-vụ trong lực-lượng DSCÐ và đã có kinh nghiệm chiến-đấu. Phần huấn luyện kỹ thuật hành quân ngoại-lệ bắt đầu từ giai đoạn này. Ðầu tiên là phải qua khóa huấn luyện nhẩy-dù, sau đó là các môn học đặc biệt về hành quân như: di-chuyển lặng-lẽ, bí mật, phương-pháp tìm dấu vết, theo-dõi, cách xử-dụng bản đồ, điạ bàn, dụng-cụ làm dấu, những kỹ thuật xâm nhập, triệt-thoái vùng thámsát, hoạt-động, xử dụng các loại vũ-khí đặc biệt, cứu thương, kỹ thuật đột-kích, phục kích.
Chương trình huấn luyện kéo dài năm hay sáu tuần-lễ, sáu ngày một tuần và khoảng mười tiếng đồng hồ mỗi ngày. Các buổi huấn luyện trong căn-cứ và thực tập ngoài bãi tập.
Vấn đề hành-quân ngoại lệ rất cần phần không trợ. Phi đoàn không-yểm thuộc Lục quân Hoa-Kỳ biệt phái choLiên-đoàn 5 LLÐB đã yểm trợ trực tiếp bằng những trực thăng võ trang và chuyển vận. Ngoài ra Không lực Hoa-Kỳ cung cấp phương tiện chuyển vận, đổ quân cấp đơn-vị lớn và về tiếp liệu. Không lực Hoa-Kỳ và Việt Nam còn yểm trợ thêm về phần oanh-kích hoặc chuyển tiếp công-điện qua hệ thống truyền tin. Ngoài vùng I chiến thuật, máy bay của Thuỷ quân Lục chiến Hoa-Kỳ cũng cung cấp những phương tiện yểm trợ tương tự.
VI. SOẠN THẢO KẾ HOẠCH HÀNH QUÂN.
Chiến tranh ngoại lệ là một vai trò rất quan-trọng củaLLÐB trên chiến trường nam Việt Nam. Ngoại trừ vài trường hợp đặc biệt, mỗi cuộc hành quân đều được soạn thảo, điều nghiên kỹ-lưỡng trước khi thực hiện và lực lượng tham-dự được di chuyển đến căn cứ tiền phương trước khi ra tay. Thời gian dành cho soạn thảo kế hoạch, chuyển quân tuỳ theo mỗi loại hành quân và độ khẩn của cuộc hành quân.
Soạn thảo lệnh hành quân bắt đầu với đầy đủ chi tiết tình báo về khu vực hành quân. Mọi dữ kiện về điạ thế, thời tiết và những nơi tình nghi có quân địch đều được thâu thập và phân tích. Tất cả những chi tiết đó đều được ghi trên bản đồ, những lộ trình chính và phụ cho nhiệm-vụ trinh sát đều được chọn lựa và đánh dấu. Nguồn tin tức thường được lấy từ các bản báo cáo về tình-báo, không ảnh, thẩm vấn
tù binh, và những bản báo cáo của các đơn-vị bạn đã hành quân qua trước đây. Nếu cần, ban tham mưu soạn thảo lệnh hành quân bay những phi-vụ thám thính khu vực hoạt động trước. Những chuyến bay này rất quan trọng cho quyết định cuối cùng chọn điểm xâm nhập, triệt xuất, chính và phụ.
Khi việc soạn thảo, điều nghiên đã hoàn tất, lệnh hành-quân sẽ được ban ra. Kế tiếp là việc chuẩn bị hành quân, trường-hợp cần thiết phải chuyển quân, vật liệu đến một căn cứ tiền phương đã có không yểm. Nếu chỉ là một toán nhỏ, ít vật liệu, phi cơ trực thăng của Lục quân, TQLC/HK hoặc phi-cơ nhỏ được xử dụng. Nếu cuộc hành quân với quân số cấp đại đội hoặc lớn hơn sẽ được Không lực Hoa-Kỳ cung cấp với loại phi-cơ vận tải C-7A hoặc C130. Khi đến căn-cứ hành-quân tiền phương, đơn-vị sẽ bị thanh-tra để có thể trong vị thế sẵn sàng. Các sĩ quan thuộc quyền sẽ được nghe thuyết trình về mục đích, nhiệm-vụ của cuộc hành quân cùng vớí mệnh-lệnh chi tiết cho từng trung đội, tiểu-đội hoặc toán.
Trong những nhiệm-vụ thám sát, các phương-pháp, thủ tục cho mỗi hoạt-động sẽ được trình bầy chi-tiết tùy theo cuộc hành quân. Khi vào vùng địch, lúc ra khỏi phi-cơ, di chuyển trong khu vực hành quân, trường hợp chạm địch, và giờ giấc cho vấn đề triệt xuất.
Sự thành công trong chiến tranh ngoại lệ tùy thuộc rất nhiều vào yếu-tố bất ngờ. Thêm vào phần an-ninh của toán biệt-kích, nhiều lúc cần phải tìm cách đánh lừa địch quân. Lừa đối phương cũng là một phần quan trọng trong các cuộc hành quân. Tùy theo tình hình, thời tiết, mùa màng và quân số trong cuộc hành quân mà thực hiện các chuyến xâm nhập bằng đường bộ, không hoặc thủy. Tuy nhiên trên chiến trường Việt-Nam, hầu hết các cuộc xâm nhập, triệt xuất đều thực hiện bằng phương tiện trực thăng.
Kinh nghiệm cho biết, thời gian hữu hiệu nhất để thả toán xâm nhập vào lúc trời sắp tối, đủ thì-giờ cho toán lẩn vào bóng tối và trực thăng được bảo vệ bởi bầu trời đen. Tuy vậy, địch quân vẫn khám phá ra phương pháp thả toán của ta và tìm cách đối phó. Do đó phải đánh lừa địch về điểm thả quân, trực thăng sẽ đáp xuống ba chỗ hay hơn nữa trước khi thực sự thả toán. Ðiều này làm cho địch phân vân không biết đâu là điểm thả quân một cách chính xác. Một phương pháp khác là đoàn trực thăng ba chiếc bay thấp, nối đuôi nhau, chiếc bay đầu bất ngờ đáp xuống thả toán biệt-kích trong chớp nhoáng rồi bốc lên nhanh nối vào đuôi hai chiếc kia làm thành hợp đoàn ba chiếc trở lại.
Trong trường hợp thả toán bằng đường bộ, các toán 'Chạy đường mòn (Roadrunner), viễn thám xâm nhập vùng địch dễ dàng lúc trời tối hoặc ngay lúc ban ngày trong trường hợp căn cứ vẫn thường tung các toán ra tuần tiễu, lục soát mà không theo một phương hướng nhất định. Trong trường hợp khác, toán viễn thám đi xen vào với một đơn vị lớn. Khi thấy an toàn, toán biệt-kích lặng lẽ di chyển đến vùng hoạt động đã được trao phó nhiệm-vụ từ trước.
Tất cả mọi sự di-chuyển trong chiến tranh ngoại lệ đều được soạn thảo cẩn thận. Sự sống còn của một toán viễn thám nhỏ tùy thuộc vào mỗi cá nhân trong toán. Sự hiểu biết về nhiệm-vụ của từng người, đề cao cảnh giác, theo đúng thời khóa biểu lúc di chuyển. Trong kế hoạch hành quân đôi khi có dặn dò thêm trường hợp toán phải phân tán tạm thời trước áp lực của địch, thời gian, vị trí của điểm hẹn, tập-họp.
Bí mật là đặc tính căn bản trong vấn đề di chuyển của các đơn-vị hành quân ngoại lệ. Mặc dầu địch cũng đề phòng về sự hiện diện của biệt-kích quân, điều quan trọng là địch vẫn không biết rõ vị trí chính xác của toán. Mọi di chuyển phải im-lặng, bàn tay và thủ hiệu được xử dụng để truyền tin và ban lệnh thay cho lời nói, ít xử dụng máy truyền tin và để độ âm thanh tối thiểu, súng đạn đồ trang bị gọn gàng không gây tiếng động khi chạm vào cây lá hơặc đá và tuyệt-đối giữ im lặng khi di chuyển.
Về vấn đề tái tiếp tế cũng được đặt ra, các quân nhân trong chiến tranh ngoại lệ không thể mang theo đồ ăn, đạn dược và vật dụng quá năm ngày. Tùy theo mỗi cuộc hành quân, kế hoạch hành quân cũng nói đến vấn đề tái tiếp tế trong vòng từ ba đến năm ngày tại một địa điểm định trước. Vấn đề đặt ra là sự an-toàn, không để lộ vị trí của toán. Thả dù tiếp tế ban ngày sẽ làm cho địch báo động, đề phòng. Thả ban đêm trong vùng rừng núi, cơ hội thâu hồi kiện hàng rất ít.
Triệt xuất theo đúng hạn kỳ hoặc trong trường hợp khẩn cấp phải đem về một người bị tai nạn bất tử hay cả toán cũng phải tính trước. Lựclượng Ðặc biệt rất thành công từ lúc đầu cho đến giữa năm 1967, hầu hết các toán đều thi hành nhiệm vụ đúng theo hoạch định, hết thời gian, ra điểm hẹn để trực thăng bốc đem về. Những toán 'Chạy đường mòn', viễn thám rất dẽ bị địch tiêu diệt do đó nhân viên trong bộ chỉ huy có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của toán phải chuẩn bị sẵn sàng vấn đề triệt xuất toán trong vùng địch ngay tức khắc khi nhận được báo cáo 'khẩn'.
VII. CÁC CĂN CỨ / BỘ CHỈ HUY LỰC LƯƠNG ÐẶC BIỆT. B-50 LLÐB
Về vấn đề tái tiếp tế cũng được đặt ra, các quân nhân trong chiến tranh ngoại lệ không thể mang theo đồ ăn, đạn dược và vật dụng quá năm ngày. Tùy theo mỗi cuộc hành quân, kế hoạch hành quân cũng nói đến vấn đề tái tiếp tế trong vòng từ ba đến năm ngày tại một địa điểm định trước. Vấn đề đặt ra là sự an-toàn, không để lộ vị trí của toán. Thả dù tiếp tế ban ngày sẽ làm cho địch báo động, đề phòng. Thả ban đêm trong vùng rừng núi, cơ hội thâu hồi kiện hàng rất ít.
Triệt xuất theo đúng hạn kỳ hoặc trong trường hợp khẩn cấp phải đem về một người bị tai nạn bất tử hay cả toán cũng phải tính trước. Lựclượng Ðặc biệt rất thành công từ lúc đầu cho đến giữa năm 1967, hầu hết các toán đều thi hành nhiệm vụ đúng theo hoạch định, hết thời gian, ra điểm hẹn để trực thăng bốc đem về. Những toán 'Chạy đường mòn', viễn thám rất dẽ bị địch tiêu diệt do đó nhân viên trong bộ chỉ huy có nhiệm vụ theo dõi hoạt động của toán phải chuẩn bị sẵn sàng vấn đề triệt xuất toán trong vùng địch ngay tức khắc khi nhận được báo cáo 'khẩn'.
VII. CÁC CĂN CỨ / BỘ CHỈ HUY LỰC LƯƠNG ÐẶC BIỆT. B-50 LLÐB
(HÀNHQUÂN OMEGA).
Dựa trên sự thành công của các cuộc hành quân Delta và nhu cầu chiến trường, bộ chỉ huy B-50 Lực lượng Ðặc biệt tổ chức Kế-hoạch Hành-quân Omega vào tháng bẩy năm 1966 và đặt tại Nha Trang. Hành quân Omega trực tiếp đảm nhận những cuộc hành quân viễn-thám, thâu thập tin tức tình báo tác chiến, tuy nhiên không như Delta trực thuộc bộ Tổng-tham-mưu và bộ tư-lệnh Quân-viện Hoa-Kỳ, hành quân Omega được thực hiện trên vùng I chiến thuật kể từ ngày 1 tháng chín năm 1967. B-50 LLÐB tuyển mộ các sắc tộc thuộc bộ-lạc người Jah, Rhade và Sedang, người gốc Chàm và Tầu. Ban đầu gồm có tám toán viễn-thám và bốn toán 'Chạy đường mòn', sau đó tăng lên mười sáu toán viễn-thám và tám toán 'Chạy đường mòn'. Trong năm 1968, các toán 'Chạy đường mòn' thuyên-chuyểnqua B-57 LLÐB tiếp tục các hoạt động tuần tiễu lấy tin tức. Hành quân Omega có ba đại đội xung-kích làm thành phần tiếp ứng, trừ bị. Bộ chỉ huy B-50 chấm dứt nhiệm vụ tại Việt Nam vào tháng sáu năm 1972.
B-51 LLÐB TRUNG-TÂM HUẤN LUYỆN ÐỘNG BÀ THÌN.
Ðộng-ba-Thìn là trung tâm huấn-luyện của QLVNCH.Ðến năm 1964, bộ chỉ huy B51 LLÐB đến cố vấn cho chương trình huấn luyện tại trung tâm. Nhiều chương trình huấn-luyện được cải tiến theo thời gian, khóa căn-bản LLÐB Việt-Nam, khóa học Nhẩy dù của LLÐB, huấn luyện cho DSCÐ, võ Tae Kown Do Ðại-Hàn, truyền-tin và các khóa huấn luyện khác.
Năm 1968, B-51 LLÐB dời các khóa huấn luyện đi An-Khê, nhưng đến tháng mười1969 quay trở lại Ðộng-ba-Thìn và căn-cứ được gọi là Trung-tâm Huấn-luyện Quốc gia. Sau đó B-51 được Bộ chỉ huy Quân-viện giao cho nhiệm-vụ huấn-luyện quân đội Campuchia. Bộ chỉ huy B50 LLÐB rời Việt-Nam tháng ba năm 1971.
B-52 LLÐB HÀNH QUÂN DELTA.
Vào tháng năm 1964, cơquan tình-báo CIA khởi đầu chương trình Leaping Lena dùng LLÐB/HK huấn luyệncho LLÐB/VN và lực-lượng DSCÐ trong những nhiệm-vụ thám-sát thâu-thập tin tức. Khi chương trình phát triển, nhu-cầu về nhân lực của LLÐB/HK tăng lên cho đến tháng sáu năm 1965, khi liên đoàn 5 LLÐB/HK được giao phó thêm trách-nhiệm và bộ chỉ huy B-52 được thành thập để chỉ-huy và theo dõi các hoạt động viễn-thám. Chương trình này được gọi là Hànhquân Delta, mỗi toán thường gồm có hai quân-nhânLLÐB/HK và bốn LLÐB/VN, ngoại trừ các toán 'Chạy đường mòn' có từ bốn đến sáu quân nhân Việt, thường mặc quần áo, trang-bị như quân cộng-sản hoạt động trong vùng địch kiểm soát.
Bộ chỉ huy B-52 vẫn thường thay đổi lề-lối làm việc, tổ chức tùy theo nhu-cầu đòi hỏi, mới đầu chỉ có mười hai toán viễn thám LLÐB Việt-Mỹ và mười hai toán DSCÐ 'Chạy đường mòn', một đại đội phòng thủ ngườI Nùng và tiểu-đoàn 81 Biệt-cách-dù với năm đại đội làm đơn-vị xungkích tiếp ứng. Những nhiệm vụ được trao phó cho hànhquân Delta gồm có: Xác-định vị trí đơn-vị địch, thâu thập tin tức tình báo chiến lược, thẩm định sự tàn-phá cho các trận thả bom, lùng và diệt địch, đột kích và phá hoại. Bộ chỉ huy B-52 rất nổi tiếng trong suốt trận chiến.
Ðến năm 1966, chương trình Delta làm việc trực tiếp với bộ chỉ huy Quân Viên (MACV), thi hành những sứ mạng trên khắp Việt Nam. Cũng trong năm này hai chương trình khác Sigma và Omega được phát triển với nhiệm vụ tương-tự, hoạt động trên lãnh thổ vùng I và vùng II chiến thuật. Bộ chỉ huy B-52 còn được MACV giao cho nhiệm vụ huấn luyện lính Hoa-Kỳ về kỹ thuật viễn thám. B-52 đồn trú tại Nha-Trang cho đến tháng sáu năm 1970 khi chương trình Delta chấm dứt.
B-53 NHÓM CỐ VẤN HÀNH QUÂN ÐẶC BIỆT.
Bộ chỉ huy B-53 được chính thức thành lập tại Việt-Nam vào tháng hai năm 1964. Lúc đó đặt tại căn cứ huấn luyệnLLÐB Việt Nam ở Long Thành. Trong thời gian tại đó, nhiều sứ mạng của đơn-vị được đề cao và bảo trợ bởi đơn-vị Nghiên-cứu Quan-sát thuộc bộ chỉ huy Quân-Viện (MACV-SOG).
Khi Liên-đoàn 5 LLÐB/HK rời Việt-Nam năm 1971, vấn đề huấn luyện quân Việt-Nam về chiến-tranh ngoại-lệ vẫncần thiết. B-53 LLÐB trở thành hạt nhân cho chương trình này và vào tháng giêng năm 1971được gọi là nhóm Cố-vấn Sứ-mạng Ðặc-biệt (SMAG). Nhóm mới thành lập này, lúc đầu di chuyển trường huấn-luyện viễn-thám (MACV RECONDO), sau đó lấy bộ chỉ huy Liên-đoàn 5LLÐB làm bộ chỉ huy vào tháng ba.
Nhiêm vụ của nhóm cố-vấn này là huấn luyện, cố-vấn và phụ giúp cho đơn vị Dịch-vụ Sứ-mạng Ðặc-biệt (SpecialMission Service - SMS) của Việt-Nam, đơn vị này là tiền thân của LLÐB/VN trong chiến tranh ngoại lệ. Vào tháng chín năm 1971, đơn vị SMS được lệnh làm việc với Ðơn-vị 1, Sở Liên-Lạc QLVNCH đóng tại Ðà-Nẵng, hậu thân của bộ chỉ-huy Bắc (Sở Bắc) của nhóm Nghiên cứu, Quan-sát MACV (MACV-SOG). Cho đến tháng ba năm 1972, trong vòng mười một tháng, nhóm Cố-vấn Sứmạng Ðặc-biệt (SMAG) hoàn tất việc huấn luyện cho 27 toán hoạt-động và 15 toán viễn thám. Nhóm cố-vấn này chấm dứt nhiệm vụ vào tháng tư năm 1972 và bộ chỉ huy B53 rời Việt-Nam.
B-55 TOÁN LIÊN LẠC TẠI SAIGON.
Với sự hiện diện của LLÐB/HK từ năm 1962, nhu cầu phải có một ban liên lạc gần bộ chỉ huy Quân-Viện Hoa-Kỳ tại Saigon để dễ dàng trong việc soạn thảo, huấn luyện và chuyển những tin tứctình báo. Ðó là nhiệm vụ của toán Liên-Lạc LLÐB B-55, thường được gọi là Trung-tâm Hành-quân Chiến-thuật (TOC), nhưng trên thực tế, cơquan này làm nhiệm vụ giảiđoán tin tình báo. Ðược huấn luyện, hướng dẫn bởi ban Cốvấn Kỹ-thuật Hỗn-hợp (JTAD) và phối hợp với ban Nghiên-cứu Hỗn-hợp (CDS). Sau khi sở Nghiên-cứu, Quansát (MACV-SOG) hoạt-động, B-55 làm nhiệm-vụ phối-hợp giữa hai tổ-chức LLÐB tại Việt-Nam.
Là cơ-quan liên-lạc tại Saigon, B-55 phải lo thủ-tục giấy tờ cho các quân nhân LLÐB/HK tại Việt-Nam. Tham-dự các buổi họp, thuyết trình giữa các bộ chỉ-huy, tuyển mộ Lính . Vào ngày 23 tháng năm 1968, B55 đảm nhận thêm nhiệm vụ chỉ huy Lực-lượng 5 Xung kích Lưu động (Mike Force). B-55 giữ trách nhiệm này cho đến ngày lên đường về Hoa-Kỳ vào năm 1970.
B-56 HÀNH QUÂN SIGMA.
Khi mức-độ chiến trường leo thang, nhu cầu tình báo tác chiến đòi hỏi qúa nhiều, đặt nặng vấn đề cho chương trình Delta. Liên-đoàn 5 LLÐB/HK thành lập bộ chỉ huy B-56 vào tháng tám 1966 để phụ trách chương trình Hành-quân Sigma đặt căn-cứ trong trại Hồ-ngọc-Tảo. Hành quân Sigma được tổ chức tương tự như những chương trình thám sát khác, gồm có tám toán viễn-thám và ba đại-đội xung kích tiếp ứng. B-56 ít tuyển mộ người Thượng, dùng lính người Nùng hoặc Miên. Những toán 'Chạy đường mòn' của chương trình Sigma được chuyển qua bộ chỉ huy B-57 vào năm 1967. Sigma tham gia trong nhiều cuộc hành quân Blackjack trong vùng trách nhiệm hoạt động. Thường làm nhiệm vụ viễn thám cho các cuộc hành quân, đôi khi xử dụng lực lượng cơ-hữu của Sigma phối hợp với lực lượng tiếp-ứng Mike Force.
Ðến tháng mười một 1967, vấn đề chỉ huy hành quân của B-56 được đặt dưới sự kiểm soát của MACV và thuộc quyền xử dụng của viên tư lệnh Quân-đoàn II. Trong năm 1969, B-56 dời đi Ban-mê-Thuột, cuối cùng trở lại Hoa-Kỳ vào tháng năm 1971.
B-57 CHƯƠNG TRÌNH GAMMA.
Từ khi có nhiều đơn-vị trinh sát, viễn-thám hoạt động trên chiến trường Việt-Nam, nhu cầu giải đoán những nguồn tin tình báo thâu thập được và cung cấp tin tức, hướng dẫn về các mục tiêu trở nên hiển nhiên. Vào tháng sáu 1967, bộ chỉ huy B-57 chương trình Gamma được thành lập. Bộ chỉ huy đặt tại Saigon, B-57 có nhân-viên làm việc rải rác khắp các vùng chiến thuật II, III, và IV. B-57 đặc biệt tuyển mộ, điều hành những người lấy tin tức (điệp viên) hoạt động trong vùng địch. Ðể trợ giúp nhân viên tình báo của LLÐB, Lục quân Hoa-Kỳ biệt phái một số chuyên viên tình báo gọi là nhóm Cố-vấn Kỹ thuật Hỗn-hợp. Tổ chức này đã hoạt động hơn một năm và đã thiết-lập một hệ thống gián-điệp nằm-vùng, có sẵn những nguồn tin tình báo. B57 còn giữ sự liên-hệ mật thiết với các cơ-quan khác của chính quyền nhằm mục đích trao đổi, thẩm định tin tức và phối hợp các hoạt động tình báo. Chương trình Gamma chấm dứt vào tháng ba năm 1970 khi B-57 rời Việt-Nam.
TRƯỜNG VIỄN THÁM (RECONDO SCHOOL).
Khi chương trình Hành-quân Delta tăng thêm quân-số, nhu cầu huấn-luyện về kỹ thuật tuần-tiễu thám-sát được đặt ra. Vào tháng năm 1964, chương trình Delta bắt đầu huấn-luyện trong phạm-vi căn-cứ tại Nha-Trang. Một thời gian ngắn sau, các đơn-vị bắt đầu nghe đến khóa huấnluyện viễn-thám và được phép gửi quân nhân về học. Khi cơ-quan MACV được báo cáo kết qủa tốt đẹp của việc huấn luyện, ra chỉ thị cho liênđoàn 5 LLÐB đảm trách về khóa học. 15 tháng chín năm 1966 là ngày chính thức khai giảng trường huấn luyện Viễn-Thám MACV với ban huấn luyện thuộc bộ chỉ huy B-52. Khóa học dài ba tuần về kỹ thuật tác chiến, tuần-tiễu, trinh-sát. Khóa sinh phải đầy đủ sức khỏe, đã ở Việt-Nam tối thiểu một tháng và còn sáu thángphục vụ. Ưu tiên dành cho những quân nhân đến từ các toán A LLÐB, các đại-đội Biệt-động-quân, các toán viễn-thám và các đơn-vị trinh sát khác.
Sau này trường huấn luyện thêm khóa hướng dẫn về chiến-đấu cho các quân nhân LLÐB/HK mới đến Việt-Nam. Trường chính thức đóng cửa vào tháng mười một năm 1970.
LỰC-LƯỢNG DU KÍCH LƯU ÐỘNG.
Ý tưởng về Lực-lượng Du kích Lưu-động (MGF) dựa trên quan-niệm đặt những đơn-vị sâu trong vùng địch kiểm soát trong một khoảng thời gian, nhằm khuấy phá căn-cứ và các hoạt-động của địch. Bắt đầu từ năm 1966, đơn-vị Du-kích Lưu-động gồm có một toán A LLÐB và một đại-đội 150 người DSCÐ hoặc Mike Force, đã được huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu lâu dài và một trung đội trinh sát 34 người. Dưới danh-hiệu Blackjack, những đơn-vị này được đưa sâu vào vùng địch và nhận tiếp-tế bằng phương tiên thả dù. Hành quân Blackjack 21 xử dụng đơn-vị đặc nhiệm 777 gồm 15 quânnhân LLÐB/HK và 249 quân nhân Thượng. Blackjack 22 gồm có một đại đội xung-kích Mike Force và một đại đội Du-kích lưu-động. Blackjack 33 gồm đại đội 3 xung kích Mike Force và đại đội du-kích 957. Có nhiều cuộc hành quân Blackjack được tổ chức trong năm sau, cuối cùng các đạiđội Du-kích kết hợp với các đại đội xung-kích Mike Force thành đơn-vị cấp tiểu đoàn Xung-kích Lưu-động.
LỰC LƯỢNG XUNG KÍCH LƯU ÐỌÂNG (Mobile Strike Force).
Mặc dầu các trại LLÐB đều có lực lượng xung-kích cơ hữu để trả đủa tức thời, tuy nhiên vẫn phải có thêm lực lượng tiếp-ứng khác đặt dưới quyềnđiều-động trực tiếp của LLÐB trong trường hợp khẩn cấp, giải vây trại LLÐB trước áplực nặng nề của địch. Một quyết định được tiến hành vào tháng sáu năm 1966, thành lập một đơn-vị trừ bị cho mỗi quân-khu và đặt trực thuộc bộchỉ huy LLÐB quân-khu (Bộ chỉ huy C). các tiểu đoàn tiếp ứng được huấn-luyện và bắt đầu hoạt động từ mùa thu 1966. Mới đầu gọi là Lựclượng Trừ bị Lưu-động, sau trở thành 'Mike Force' (Mobile Reaction Forces - MRF). Năm 1967, tên gọi chính thức cho các đơn-vị trên là Lực-lượng Xung-kích Lưu-động (Mobile Strike Force - MSF), mỗi quân khu đều có một đơn-vị riêng và đơn-vị thứ năm được thành lập xử-dụng cho bốn quân khu.
Mặc dầu dự định là một đơnvị trừ bị đa-dụng, đơn-vị xungkích trước tiên được xử dụng như lực lượng bảo vệ căn-cứ. Mỗi đại đội có 184 người, được tổ chức như đơn vị chínhquy trang bị súng cộng-đồng. Những đại-đội này được gom lại thành tiểu đoàn 552 người. Tiểu-đoàn xung-kích thường có thêm đại đội trinh-sát 135 người và bộ chỉ huy, đại-đội công-vụ 227 người. Nhiệm vụ chính là giải vây cho các trạiLLÐB, trong năm đầu, lực lượng xung-kích phối hợp với lực-lượng du-kích trong nhiều cuộc hành-quân. Về sau thường được xử-dụng tiếp-ứng cho toán Nghiên-cứu, Quansát (MACV - SOG) khi khẩn cấp. Ðến năm 1967, lực lượng du-kích sát-nhập vào lực lượng xung-kích và hoạt độngcho đến khi LLÐB/HK bàn giao cho QLVNCH.
Chiến-đoàn 1 xung-kích trực thuộc B-16 LLÐB, thành lập vào tháng hai 1966 và đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C1/LLÐB tai Ðà-Nẵng. Trong 5 năm hoạt-động trên chiến trường vùng I, chiến đoàn 1 xung-kích gồm có hai tiểu-đoàn, một đại-đội trinh sát, bộ chỉ huy và đại-đội công-vụ.
Chiến-đoàn 2 xung-kích trực thuộc B-20 LLÐB ở Plei-Ku, B-23 ở Ban-mê-Thuột và B24 trên Kontum. Tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C2/LLÐB trách nhiệm trên lãnh thổ quân-khu II. Trong 5 năm hoạt-động, chiến-đoàn 2 xung-kích gồm có năm tiểu-đoàn, một đại đội trinh sát, bộ chỉ huy và đại đội công vụ.
Chiến-đoàn 3 xung-kích thành lập vào tháng mười một năm 1967 và đặt dưới quyền điều động của bộ chỉ huyC3/LLÐB, chịu trách nhiệm trên lãnh thổ quân-khu III. Bộ chỉ huy B-36 LLÐB chỉ huy trực tiếp chiến-đoàn 3 xungkích gồm có ba tiểu-đoàn, đại-đội trinh-sát, bộ chỉ huy cùng đại đội công-vụ. Vào cuối năm 1970, chiến đoàn dược chuyển giao cho QLVNCH, B-36 trở về Hoa-Kỳ tháng hai năm 1971.
Chiến-đoàn 4 xung-kích trực thuộc B-40, bộ chỉ huyC4/LLÐB gồm có ba tiểuđoàn, đại-đội trinh-sát, đại đội xuồng bay (Air boat) 184 người, bộ chỉ huy cùng đại-đội công-vụ. Mới đầu chịu trách nhiệm trên quân-khu IV đến tháng tám năm 1969, đặt dưới quyền điều động của Biệt-khu 44. Bắt đầu từ tháng năm 1970, chiến đoàn được bàn giao cho QLVNCH, B40/LLÐB/HK về nước tháng
mười hai năm 1970.
Dựa trên sự thành công của các cuộc hành quân Delta và nhu cầu chiến trường, bộ chỉ huy B-50 Lực lượng Ðặc biệt tổ chức Kế-hoạch Hành-quân Omega vào tháng bẩy năm 1966 và đặt tại Nha Trang. Hành quân Omega trực tiếp đảm nhận những cuộc hành quân viễn-thám, thâu thập tin tức tình báo tác chiến, tuy nhiên không như Delta trực thuộc bộ Tổng-tham-mưu và bộ tư-lệnh Quân-viện Hoa-Kỳ, hành quân Omega được thực hiện trên vùng I chiến thuật kể từ ngày 1 tháng chín năm 1967. B-50 LLÐB tuyển mộ các sắc tộc thuộc bộ-lạc người Jah, Rhade và Sedang, người gốc Chàm và Tầu. Ban đầu gồm có tám toán viễn-thám và bốn toán 'Chạy đường mòn', sau đó tăng lên mười sáu toán viễn-thám và tám toán 'Chạy đường mòn'. Trong năm 1968, các toán 'Chạy đường mòn' thuyên-chuyểnqua B-57 LLÐB tiếp tục các hoạt động tuần tiễu lấy tin tức. Hành quân Omega có ba đại đội xung-kích làm thành phần tiếp ứng, trừ bị. Bộ chỉ huy B-50 chấm dứt nhiệm vụ tại Việt Nam vào tháng sáu năm 1972.
B-51 LLÐB TRUNG-TÂM HUẤN LUYỆN ÐỘNG BÀ THÌN.
Ðộng-ba-Thìn là trung tâm huấn-luyện của QLVNCH.Ðến năm 1964, bộ chỉ huy B51 LLÐB đến cố vấn cho chương trình huấn luyện tại trung tâm. Nhiều chương trình huấn-luyện được cải tiến theo thời gian, khóa căn-bản LLÐB Việt-Nam, khóa học Nhẩy dù của LLÐB, huấn luyện cho DSCÐ, võ Tae Kown Do Ðại-Hàn, truyền-tin và các khóa huấn luyện khác.
Năm 1968, B-51 LLÐB dời các khóa huấn luyện đi An-Khê, nhưng đến tháng mười1969 quay trở lại Ðộng-ba-Thìn và căn-cứ được gọi là Trung-tâm Huấn-luyện Quốc gia. Sau đó B-51 được Bộ chỉ huy Quân-viện giao cho nhiệm-vụ huấn-luyện quân đội Campuchia. Bộ chỉ huy B50 LLÐB rời Việt-Nam tháng ba năm 1971.
B-52 LLÐB HÀNH QUÂN DELTA.
Vào tháng năm 1964, cơquan tình-báo CIA khởi đầu chương trình Leaping Lena dùng LLÐB/HK huấn luyệncho LLÐB/VN và lực-lượng DSCÐ trong những nhiệm-vụ thám-sát thâu-thập tin tức. Khi chương trình phát triển, nhu-cầu về nhân lực của LLÐB/HK tăng lên cho đến tháng sáu năm 1965, khi liên đoàn 5 LLÐB/HK được giao phó thêm trách-nhiệm và bộ chỉ huy B-52 được thành thập để chỉ-huy và theo dõi các hoạt động viễn-thám. Chương trình này được gọi là Hànhquân Delta, mỗi toán thường gồm có hai quân-nhânLLÐB/HK và bốn LLÐB/VN, ngoại trừ các toán 'Chạy đường mòn' có từ bốn đến sáu quân nhân Việt, thường mặc quần áo, trang-bị như quân cộng-sản hoạt động trong vùng địch kiểm soát.
Bộ chỉ huy B-52 vẫn thường thay đổi lề-lối làm việc, tổ chức tùy theo nhu-cầu đòi hỏi, mới đầu chỉ có mười hai toán viễn thám LLÐB Việt-Mỹ và mười hai toán DSCÐ 'Chạy đường mòn', một đại đội phòng thủ ngườI Nùng và tiểu-đoàn 81 Biệt-cách-dù với năm đại đội làm đơn-vị xungkích tiếp ứng. Những nhiệm vụ được trao phó cho hànhquân Delta gồm có: Xác-định vị trí đơn-vị địch, thâu thập tin tức tình báo chiến lược, thẩm định sự tàn-phá cho các trận thả bom, lùng và diệt địch, đột kích và phá hoại. Bộ chỉ huy B-52 rất nổi tiếng trong suốt trận chiến.
Ðến năm 1966, chương trình Delta làm việc trực tiếp với bộ chỉ huy Quân Viên (MACV), thi hành những sứ mạng trên khắp Việt Nam. Cũng trong năm này hai chương trình khác Sigma và Omega được phát triển với nhiệm vụ tương-tự, hoạt động trên lãnh thổ vùng I và vùng II chiến thuật. Bộ chỉ huy B-52 còn được MACV giao cho nhiệm vụ huấn luyện lính Hoa-Kỳ về kỹ thuật viễn thám. B-52 đồn trú tại Nha-Trang cho đến tháng sáu năm 1970 khi chương trình Delta chấm dứt.
B-53 NHÓM CỐ VẤN HÀNH QUÂN ÐẶC BIỆT.
Bộ chỉ huy B-53 được chính thức thành lập tại Việt-Nam vào tháng hai năm 1964. Lúc đó đặt tại căn cứ huấn luyệnLLÐB Việt Nam ở Long Thành. Trong thời gian tại đó, nhiều sứ mạng của đơn-vị được đề cao và bảo trợ bởi đơn-vị Nghiên-cứu Quan-sát thuộc bộ chỉ huy Quân-Viện (MACV-SOG).
Khi Liên-đoàn 5 LLÐB/HK rời Việt-Nam năm 1971, vấn đề huấn luyện quân Việt-Nam về chiến-tranh ngoại-lệ vẫncần thiết. B-53 LLÐB trở thành hạt nhân cho chương trình này và vào tháng giêng năm 1971được gọi là nhóm Cố-vấn Sứ-mạng Ðặc-biệt (SMAG). Nhóm mới thành lập này, lúc đầu di chuyển trường huấn-luyện viễn-thám (MACV RECONDO), sau đó lấy bộ chỉ huy Liên-đoàn 5LLÐB làm bộ chỉ huy vào tháng ba.
Nhiêm vụ của nhóm cố-vấn này là huấn luyện, cố-vấn và phụ giúp cho đơn vị Dịch-vụ Sứ-mạng Ðặc-biệt (SpecialMission Service - SMS) của Việt-Nam, đơn vị này là tiền thân của LLÐB/VN trong chiến tranh ngoại lệ. Vào tháng chín năm 1971, đơn vị SMS được lệnh làm việc với Ðơn-vị 1, Sở Liên-Lạc QLVNCH đóng tại Ðà-Nẵng, hậu thân của bộ chỉ-huy Bắc (Sở Bắc) của nhóm Nghiên cứu, Quan-sát MACV (MACV-SOG). Cho đến tháng ba năm 1972, trong vòng mười một tháng, nhóm Cố-vấn Sứmạng Ðặc-biệt (SMAG) hoàn tất việc huấn luyện cho 27 toán hoạt-động và 15 toán viễn thám. Nhóm cố-vấn này chấm dứt nhiệm vụ vào tháng tư năm 1972 và bộ chỉ huy B53 rời Việt-Nam.
B-55 TOÁN LIÊN LẠC TẠI SAIGON.
Với sự hiện diện của LLÐB/HK từ năm 1962, nhu cầu phải có một ban liên lạc gần bộ chỉ huy Quân-Viện Hoa-Kỳ tại Saigon để dễ dàng trong việc soạn thảo, huấn luyện và chuyển những tin tứctình báo. Ðó là nhiệm vụ của toán Liên-Lạc LLÐB B-55, thường được gọi là Trung-tâm Hành-quân Chiến-thuật (TOC), nhưng trên thực tế, cơquan này làm nhiệm vụ giảiđoán tin tình báo. Ðược huấn luyện, hướng dẫn bởi ban Cốvấn Kỹ-thuật Hỗn-hợp (JTAD) và phối hợp với ban Nghiên-cứu Hỗn-hợp (CDS). Sau khi sở Nghiên-cứu, Quansát (MACV-SOG) hoạt-động, B-55 làm nhiệm-vụ phối-hợp giữa hai tổ-chức LLÐB tại Việt-Nam.
Là cơ-quan liên-lạc tại Saigon, B-55 phải lo thủ-tục giấy tờ cho các quân nhân LLÐB/HK tại Việt-Nam. Tham-dự các buổi họp, thuyết trình giữa các bộ chỉ-huy, tuyển mộ Lính . Vào ngày 23 tháng năm 1968, B55 đảm nhận thêm nhiệm vụ chỉ huy Lực-lượng 5 Xung kích Lưu động (Mike Force). B-55 giữ trách nhiệm này cho đến ngày lên đường về Hoa-Kỳ vào năm 1970.
B-56 HÀNH QUÂN SIGMA.
Khi mức-độ chiến trường leo thang, nhu cầu tình báo tác chiến đòi hỏi qúa nhiều, đặt nặng vấn đề cho chương trình Delta. Liên-đoàn 5 LLÐB/HK thành lập bộ chỉ huy B-56 vào tháng tám 1966 để phụ trách chương trình Hành-quân Sigma đặt căn-cứ trong trại Hồ-ngọc-Tảo. Hành quân Sigma được tổ chức tương tự như những chương trình thám sát khác, gồm có tám toán viễn-thám và ba đại-đội xung kích tiếp ứng. B-56 ít tuyển mộ người Thượng, dùng lính người Nùng hoặc Miên. Những toán 'Chạy đường mòn' của chương trình Sigma được chuyển qua bộ chỉ huy B-57 vào năm 1967. Sigma tham gia trong nhiều cuộc hành quân Blackjack trong vùng trách nhiệm hoạt động. Thường làm nhiệm vụ viễn thám cho các cuộc hành quân, đôi khi xử dụng lực lượng cơ-hữu của Sigma phối hợp với lực lượng tiếp-ứng Mike Force.
Ðến tháng mười một 1967, vấn đề chỉ huy hành quân của B-56 được đặt dưới sự kiểm soát của MACV và thuộc quyền xử dụng của viên tư lệnh Quân-đoàn II. Trong năm 1969, B-56 dời đi Ban-mê-Thuột, cuối cùng trở lại Hoa-Kỳ vào tháng năm 1971.
B-57 CHƯƠNG TRÌNH GAMMA.
Từ khi có nhiều đơn-vị trinh sát, viễn-thám hoạt động trên chiến trường Việt-Nam, nhu cầu giải đoán những nguồn tin tình báo thâu thập được và cung cấp tin tức, hướng dẫn về các mục tiêu trở nên hiển nhiên. Vào tháng sáu 1967, bộ chỉ huy B-57 chương trình Gamma được thành lập. Bộ chỉ huy đặt tại Saigon, B-57 có nhân-viên làm việc rải rác khắp các vùng chiến thuật II, III, và IV. B-57 đặc biệt tuyển mộ, điều hành những người lấy tin tức (điệp viên) hoạt động trong vùng địch. Ðể trợ giúp nhân viên tình báo của LLÐB, Lục quân Hoa-Kỳ biệt phái một số chuyên viên tình báo gọi là nhóm Cố-vấn Kỹ thuật Hỗn-hợp. Tổ chức này đã hoạt động hơn một năm và đã thiết-lập một hệ thống gián-điệp nằm-vùng, có sẵn những nguồn tin tình báo. B57 còn giữ sự liên-hệ mật thiết với các cơ-quan khác của chính quyền nhằm mục đích trao đổi, thẩm định tin tức và phối hợp các hoạt động tình báo. Chương trình Gamma chấm dứt vào tháng ba năm 1970 khi B-57 rời Việt-Nam.
TRƯỜNG VIỄN THÁM (RECONDO SCHOOL).
Khi chương trình Hành-quân Delta tăng thêm quân-số, nhu cầu huấn-luyện về kỹ thuật tuần-tiễu thám-sát được đặt ra. Vào tháng năm 1964, chương trình Delta bắt đầu huấn-luyện trong phạm-vi căn-cứ tại Nha-Trang. Một thời gian ngắn sau, các đơn-vị bắt đầu nghe đến khóa huấnluyện viễn-thám và được phép gửi quân nhân về học. Khi cơ-quan MACV được báo cáo kết qủa tốt đẹp của việc huấn luyện, ra chỉ thị cho liênđoàn 5 LLÐB đảm trách về khóa học. 15 tháng chín năm 1966 là ngày chính thức khai giảng trường huấn luyện Viễn-Thám MACV với ban huấn luyện thuộc bộ chỉ huy B-52. Khóa học dài ba tuần về kỹ thuật tác chiến, tuần-tiễu, trinh-sát. Khóa sinh phải đầy đủ sức khỏe, đã ở Việt-Nam tối thiểu một tháng và còn sáu thángphục vụ. Ưu tiên dành cho những quân nhân đến từ các toán A LLÐB, các đại-đội Biệt-động-quân, các toán viễn-thám và các đơn-vị trinh sát khác.
Sau này trường huấn luyện thêm khóa hướng dẫn về chiến-đấu cho các quân nhân LLÐB/HK mới đến Việt-Nam. Trường chính thức đóng cửa vào tháng mười một năm 1970.
LỰC-LƯỢNG DU KÍCH LƯU ÐỘNG.
Ý tưởng về Lực-lượng Du kích Lưu-động (MGF) dựa trên quan-niệm đặt những đơn-vị sâu trong vùng địch kiểm soát trong một khoảng thời gian, nhằm khuấy phá căn-cứ và các hoạt-động của địch. Bắt đầu từ năm 1966, đơn-vị Du-kích Lưu-động gồm có một toán A LLÐB và một đại-đội 150 người DSCÐ hoặc Mike Force, đã được huấn luyện về kỹ thuật tuần tiễu lâu dài và một trung đội trinh sát 34 người. Dưới danh-hiệu Blackjack, những đơn-vị này được đưa sâu vào vùng địch và nhận tiếp-tế bằng phương tiên thả dù. Hành quân Blackjack 21 xử dụng đơn-vị đặc nhiệm 777 gồm 15 quânnhân LLÐB/HK và 249 quân nhân Thượng. Blackjack 22 gồm có một đại đội xung-kích Mike Force và một đại đội Du-kích lưu-động. Blackjack 33 gồm đại đội 3 xung kích Mike Force và đại đội du-kích 957. Có nhiều cuộc hành quân Blackjack được tổ chức trong năm sau, cuối cùng các đạiđội Du-kích kết hợp với các đại đội xung-kích Mike Force thành đơn-vị cấp tiểu đoàn Xung-kích Lưu-động.
LỰC LƯỢNG XUNG KÍCH LƯU ÐỌÂNG (Mobile Strike Force).
Mặc dầu các trại LLÐB đều có lực lượng xung-kích cơ hữu để trả đủa tức thời, tuy nhiên vẫn phải có thêm lực lượng tiếp-ứng khác đặt dưới quyềnđiều-động trực tiếp của LLÐB trong trường hợp khẩn cấp, giải vây trại LLÐB trước áplực nặng nề của địch. Một quyết định được tiến hành vào tháng sáu năm 1966, thành lập một đơn-vị trừ bị cho mỗi quân-khu và đặt trực thuộc bộchỉ huy LLÐB quân-khu (Bộ chỉ huy C). các tiểu đoàn tiếp ứng được huấn-luyện và bắt đầu hoạt động từ mùa thu 1966. Mới đầu gọi là Lựclượng Trừ bị Lưu-động, sau trở thành 'Mike Force' (Mobile Reaction Forces - MRF). Năm 1967, tên gọi chính thức cho các đơn-vị trên là Lực-lượng Xung-kích Lưu-động (Mobile Strike Force - MSF), mỗi quân khu đều có một đơn-vị riêng và đơn-vị thứ năm được thành lập xử-dụng cho bốn quân khu.
Mặc dầu dự định là một đơnvị trừ bị đa-dụng, đơn-vị xungkích trước tiên được xử dụng như lực lượng bảo vệ căn-cứ. Mỗi đại đội có 184 người, được tổ chức như đơn vị chínhquy trang bị súng cộng-đồng. Những đại-đội này được gom lại thành tiểu đoàn 552 người. Tiểu-đoàn xung-kích thường có thêm đại đội trinh-sát 135 người và bộ chỉ huy, đại-đội công-vụ 227 người. Nhiệm vụ chính là giải vây cho các trạiLLÐB, trong năm đầu, lực lượng xung-kích phối hợp với lực-lượng du-kích trong nhiều cuộc hành-quân. Về sau thường được xử-dụng tiếp-ứng cho toán Nghiên-cứu, Quansát (MACV - SOG) khi khẩn cấp. Ðến năm 1967, lực lượng du-kích sát-nhập vào lực lượng xung-kích và hoạt độngcho đến khi LLÐB/HK bàn giao cho QLVNCH.
Chiến-đoàn 1 xung-kích trực thuộc B-16 LLÐB, thành lập vào tháng hai 1966 và đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C1/LLÐB tai Ðà-Nẵng. Trong 5 năm hoạt-động trên chiến trường vùng I, chiến đoàn 1 xung-kích gồm có hai tiểu-đoàn, một đại-đội trinh sát, bộ chỉ huy và đại-đội công-vụ.
Chiến-đoàn 2 xung-kích trực thuộc B-20 LLÐB ở Plei-Ku, B-23 ở Ban-mê-Thuột và B24 trên Kontum. Tất cả đặt dưới quyền chỉ huy của bộ chỉ huy C2/LLÐB trách nhiệm trên lãnh thổ quân-khu II. Trong 5 năm hoạt-động, chiến-đoàn 2 xung-kích gồm có năm tiểu-đoàn, một đại đội trinh sát, bộ chỉ huy và đại đội công vụ.
Chiến-đoàn 3 xung-kích thành lập vào tháng mười một năm 1967 và đặt dưới quyền điều động của bộ chỉ huyC3/LLÐB, chịu trách nhiệm trên lãnh thổ quân-khu III. Bộ chỉ huy B-36 LLÐB chỉ huy trực tiếp chiến-đoàn 3 xungkích gồm có ba tiểu-đoàn, đại-đội trinh-sát, bộ chỉ huy cùng đại đội công-vụ. Vào cuối năm 1970, chiến đoàn dược chuyển giao cho QLVNCH, B-36 trở về Hoa-Kỳ tháng hai năm 1971.
Chiến-đoàn 4 xung-kích trực thuộc B-40, bộ chỉ huyC4/LLÐB gồm có ba tiểuđoàn, đại-đội trinh-sát, đại đội xuồng bay (Air boat) 184 người, bộ chỉ huy cùng đại-đội công-vụ. Mới đầu chịu trách nhiệm trên quân-khu IV đến tháng tám năm 1969, đặt dưới quyền điều động của Biệt-khu 44. Bắt đầu từ tháng năm 1970, chiến đoàn được bàn giao cho QLVNCH, B40/LLÐB/HK về nước tháng
mười hai năm 1970.
LIÊN ÐOÀN NGHIÊN CỨU, QUAN SÁT (MACV SOG).
Liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát thuộc bộ chỉ huy Quân-Viện (MACV - SOG) là một đơn-vị tuyệt-đối cho các hành quân đặc biệt. Ngay từ lúc khởi đầu, danh hiệu Nghiên-cứu, Quan-sát (đôi khi gọi là Hành quân Ðặc biệt) được dùng làm tên che mắt (Code name - Danh hiệu) cho các cuộc hành quân tối mật về tình-báo.
Cơ-quan Trung-ương Tìnhbáo CIA đã từ lâu yểm trợ cho các dịch-vụ bí-mật của chính quyền VNCH cho đến năm 1963, lúc đó cơ-quan trở thành bộ chỉ huy Lực-lượngÐặc-biệt Việt-Nam và thực hiện những cuộc hành quân đặc biệt. Cường-độ chiến tranh gia tăng, nhu cầu cho các hoạt-động tăng lên.
LLÐB/VN phát triển trở thànhSở Khai-thác Ðặc-biệt. Vào ngày 16 tháng giêng năm 1964, bộ chỉ huy mới Liênđoàn Nghiên-cứu, Quan-sát được thành lập trong Chợ-Lớn cho các cuộc hành quân đặc biệt. Năm 1966, bộ chỉ huy MACV-SOG dời ra Saigon, bộ phận Bộ đóng trong phi trường Tân-sơn-Nhất, bộ phận Không yểm dời ra Nha Trang, và bộ phận Hải yểm đóng ngoài Ðà-Nẵng.
Các sứ-mạng của MACVSOG nhắm trực tiếp vào những nơi địch kiểm-soát trong miền nam Việt-Nam, và vượt biên sang đất Lào, Campuchia, Bắc Việt và nam Trung-Hoa. Những nhiệm-vụ đặc biệt bao gồm việc thuthập tin-tức tình báo chiếnlược, phá-hoại đường giao liên, tiếp vận của địch, chiến tranh tâm-lý, cứu tù-binh và phát triển phong-trào kháng chiến chống lại chính-quyền, v.v... Những nhiệm-vụ thám sát của Liên-đoàn Nghiên cứu, Quan-sát (MACV-SOG) được chọn lựa kỹ càng và những bản báo-cáo sau chuyến xâm-nhập thường được gửi về Ngũ-giác đài để đánh gía và phân phối đi.
Năm 1967, MACV-SOG được tổ chức lại đơn-vị Bộ thành ba bộ chỉ huy: Bộ chỉ huy Bắc (CCN) ở Ðà-Nẵng, Trung (CCC) trên Kontum và Nam (CCS) ở Ban-mê-Thuột. Những bộ chỉ huy này được tổ chức bằng cách gom lại một số căn-cứ hành-quân tiền phương (FOB), mà trước đây được thiết lập để yểm trợ tiếp cận cho những cuộc hành quân xâm nhập. Các căn cứ này đóng ở Phú-Bài (Huế), Kontum, Khe-Sanh, Non-Nước, Ban-mê-Thuột và trại Hồ-ngọc-Tảo. Bộ phận (Sở) Bộ gồm hơn 1600 quânLLÐB/HK, chia ra hơn 70 toán thám-sát và 8000 quân LLÐB Việt-Nam.
Cách tổ chức cuả Liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát (MACV-SOG) cũng gần như song-song với tổ chức của Lực-lượng Ðặc-biệt với các toán xâm-nhập tương đương với các toán A LLÐB, căn-cứ hành-quân tiền-phương tương đương với bộ chỉ huy BLLÐB, các bộ chỉ huy Bắc, Trung, Nam tương đương với các bộ chỉ huy C LLÐB.
Bộ phận (Sở) Không yểm bao gồm Phi-đoàn 90 Hànhquân Ðặc-biệt (SOS) của Không-lực Hoa-Kỳ, đóng tại Nha Trang, cung cấp máy bay C-130. Phi đoàn 20 (SOS) có bộ chỉ huy ở vịnh Cam Ranh, các đơn-vị phụ thuộc đóng tạiBan-mê-Thuột, Ðức-Lập và Tiêu Atar cung cấp trực thăng yểm trợ. Ngoài ra MACVSOG còn có đơn-vị trực thuộc là Phi-đoàn Ðệ Nhất (First Flight) đóng rải rác khắp nơi
và Thái-Lan.
Bộ phận Hải yểm đóngngoài Ðà-Nẵng gồm có đơnvị Biệt-kích (SEALs) của Hải quân Hoa-Kỳ, các siêu tốc đỉnh và các toán Người Nhái, phá-hoại dưới nước thuộc Hải-quân Việt-Nam.
MACV-SOG còn có một trung tâm huấn luyện và đơn vị xâm-nhập bằng dù ở LongThành. Ðơn-vị này gồm các quân-nhân Việt-Nam, được thả vào vùng địch bằng phương tiện nhẩy-dù.
Cơ-quan MACV-SOG ngưng hoạt động kể từ ngày 30 tháng tư 1971 và chương trình được giao cho toán Yểm trợ Nha Kỹ-Thuật 158 (STDAT). Một số quân Bộ đã chuyển qua nhóm Cố-vấn Hành-quânÐặc-biệt từ tháng ba năm 1971. Cuối cùng chấm dứt nhiệm-vụ vào ngày 12 tháng ba năm 1972. Kết thúc một trong những huyền thoại trong ngành Lực-lượng Ðặc-biệt.
BỘ CHỈ HUY (CCN) SỞ BẮC.
Bộ chỉ huy Bắc được thành lập vào ngày 01 tháng mườimột năm 1967 tại Ðà-Nẵng với ba bộ chỉ huy tiền-phương 1 tại Phú-Bài, bộ chỉ huy tiềnphương 3 tại Khe-Sanh và bộ chỉ huy tiền-phương 4 tại Non- Nước. Quân nhân thuộc Liênđoàn 5 LLÐB/HK và ban cố vấn Hải-quân.
Các hành quân vượt biên do BCH Bắc tổ chức nhắm vào miền bắc Việt-Nam và Lào. Những cuộc hành quân trong vùng nam Lào dưới danh hiệu Shining Brass bắt đầu từ năm 1965 nhằm phá-hoại đường dây xâm nhập người và vật liệu. Sau đó đổi tên là Prairie Fire, khi chuyển qua Nha Kỹ- Thuật cuộc hành quân lấy tên là Phù-Dung.
Như tất cả các cuộc hành quân thám-sát, BCH Bắc cũng có đơn-vị tiếp ứng gọi là đơn-vị Cảm- Tử đặc biệt. Ngoài ra còn thiết lập những căn cứ hành quân bí mật bên Thái Lan. Tuy nhiên, nhiệmvụ chính vẫn là trinh-sát, thâu thập tin tức tình báo chiến lược.
BỘ CHỈ HUY (CCC) SỞ TRUNG.
Bộ chỉ huy này đóng tại Kontum gồm quân của Liênđoàn 5 LLÐB/HK, có thời gian được xem như phần nớirộng hành quân của LÐ 5LLÐB. Khu vực trách nhiệm của bộ chỉ huy là tam giác Lào, Miên và Việt. Các cuộc hành quân lúc đầu lấy tên là Daniel Boone, sau đổi thành Salem House nhằm phá hoại căn cứ, kho tiếp-liệu che dấu của quân cộng-sản Bắc Việt, đặc biệt trong vùng đông-bắc Campuchia. Trong Bộ chỉ huy Trung có tất cả 30 toán thám-sát, mỗi toán gồm 3quân nhân LLÐB/HK và chín quân nhân Việt-Nam. Ngoài ra còn có bốn đại-đội khai thác, xử dụng tin tức do các toán thám-sát cung cấp trong các cuộc hành quân lùng và diệt.
BỘ CHỈ HUY (CCS) SỞ NAM.
Bộ chỉ huy này được thành lập vào tháng mười một năm 1967 đồn trú tại Ban-mê-Thuột. Bộ chỉ huy này nhỏ nhất trong các bộ chỉ huy của liên-đoàn Nghiên-cứu, Quansát (MACV-SOG). Khu vực hoạt động chính nơi đồng bằng Cửu Long và Campuchia. Ðơn-vị gồm có một số toán thám-sát và bốn đại đội khai thác. Do địa thế dưới vùng đồng bằng, các đại-đội khai thác thường xử dụng xuồng bay trong các cuộc hành quân tiếp ứng. Sự tham chiến của các quân nhân Hoa-Kỳ trong đơn-vị này chấm dứt vào tháng giêng năm 1973, tất cả các đơn-vị Hoa-Kỳ trở về nước.
IX. ÐOẠN KẾT.
Trong chiến tranh Việt-Nam, rất nhiều giai thoại nói về binh-chủng Lực-Lượng Ðặc-Biệt. Nhưng ít người hiểu biết tường tận, ngay cả đến những quân nhân phục vụ trong ngành LLÐB. Ðiều này không nên lấy làm lạ vì đó là đặc tính căn bản (Sống chết) của LLÐB... 'BÍ MẬT'. Nhiều đơn-vị có tên nghe rất lạ, Lôi-Hổ, Thám-sát, Sở Công-tác,liên-lạc, Biệt-kích v.v... Ðối với quân đội Hoa-Kỳ, các quân nhân LLÐB được coi như những chiến-sĩ can trường, được tuyển chọn và huấn luyện đầy đủ nhất. Trong QLVNCH, binh-chủng LLÐB Việt Nam gồm những chiến-sĩ can-đảm, gan-lì, đôi khi hơi bí-mật... Họ là những 'Bóng ma biên giới' đối với quân cộng sản. Binh chủng LLÐB đã đóng góp rất nhiều công lao, xương máu cho miền Nam tự do của chúng ta, mặc dầu những chiến công, sự chiến đấu của họ cũng thầm lặng... bí mật.
-Harry Pugh, U.S. Special Forces, C&D Enterprises, Arlington, VA. 1993 -Francis J. Kelly, The Green
Berets, Brassey Inc., New York, NY. 1991 -Special Forces and Missions, Time-Life books, Alexandria, VA.
Dallas, Cọp Khánh-Hòa
Các sứ-mạng của MACVSOG nhắm trực tiếp vào những nơi địch kiểm-soát trong miền nam Việt-Nam, và vượt biên sang đất Lào, Campuchia, Bắc Việt và nam Trung-Hoa. Những nhiệm-vụ đặc biệt bao gồm việc thuthập tin-tức tình báo chiếnlược, phá-hoại đường giao liên, tiếp vận của địch, chiến tranh tâm-lý, cứu tù-binh và phát triển phong-trào kháng chiến chống lại chính-quyền, v.v... Những nhiệm-vụ thám sát của Liên-đoàn Nghiên cứu, Quan-sát (MACV-SOG) được chọn lựa kỹ càng và những bản báo-cáo sau chuyến xâm-nhập thường được gửi về Ngũ-giác đài để đánh gía và phân phối đi.
Năm 1967, MACV-SOG được tổ chức lại đơn-vị Bộ thành ba bộ chỉ huy: Bộ chỉ huy Bắc (CCN) ở Ðà-Nẵng, Trung (CCC) trên Kontum và Nam (CCS) ở Ban-mê-Thuột. Những bộ chỉ huy này được tổ chức bằng cách gom lại một số căn-cứ hành-quân tiền phương (FOB), mà trước đây được thiết lập để yểm trợ tiếp cận cho những cuộc hành quân xâm nhập. Các căn cứ này đóng ở Phú-Bài (Huế), Kontum, Khe-Sanh, Non-Nước, Ban-mê-Thuột và trại Hồ-ngọc-Tảo. Bộ phận (Sở) Bộ gồm hơn 1600 quânLLÐB/HK, chia ra hơn 70 toán thám-sát và 8000 quân LLÐB Việt-Nam.
Cách tổ chức cuả Liên-đoàn Nghiên-cứu, Quan-sát (MACV-SOG) cũng gần như song-song với tổ chức của Lực-lượng Ðặc-biệt với các toán xâm-nhập tương đương với các toán A LLÐB, căn-cứ hành-quân tiền-phương tương đương với bộ chỉ huy BLLÐB, các bộ chỉ huy Bắc, Trung, Nam tương đương với các bộ chỉ huy C LLÐB.
Bộ phận (Sở) Không yểm bao gồm Phi-đoàn 90 Hànhquân Ðặc-biệt (SOS) của Không-lực Hoa-Kỳ, đóng tại Nha Trang, cung cấp máy bay C-130. Phi đoàn 20 (SOS) có bộ chỉ huy ở vịnh Cam Ranh, các đơn-vị phụ thuộc đóng tạiBan-mê-Thuột, Ðức-Lập và Tiêu Atar cung cấp trực thăng yểm trợ. Ngoài ra MACVSOG còn có đơn-vị trực thuộc là Phi-đoàn Ðệ Nhất (First Flight) đóng rải rác khắp nơi
và Thái-Lan.
Bộ phận Hải yểm đóngngoài Ðà-Nẵng gồm có đơnvị Biệt-kích (SEALs) của Hải quân Hoa-Kỳ, các siêu tốc đỉnh và các toán Người Nhái, phá-hoại dưới nước thuộc Hải-quân Việt-Nam.
MACV-SOG còn có một trung tâm huấn luyện và đơn vị xâm-nhập bằng dù ở LongThành. Ðơn-vị này gồm các quân-nhân Việt-Nam, được thả vào vùng địch bằng phương tiện nhẩy-dù.
Cơ-quan MACV-SOG ngưng hoạt động kể từ ngày 30 tháng tư 1971 và chương trình được giao cho toán Yểm trợ Nha Kỹ-Thuật 158 (STDAT). Một số quân Bộ đã chuyển qua nhóm Cố-vấn Hành-quânÐặc-biệt từ tháng ba năm 1971. Cuối cùng chấm dứt nhiệm-vụ vào ngày 12 tháng ba năm 1972. Kết thúc một trong những huyền thoại trong ngành Lực-lượng Ðặc-biệt.
BỘ CHỈ HUY (CCN) SỞ BẮC.
Bộ chỉ huy Bắc được thành lập vào ngày 01 tháng mườimột năm 1967 tại Ðà-Nẵng với ba bộ chỉ huy tiền-phương 1 tại Phú-Bài, bộ chỉ huy tiềnphương 3 tại Khe-Sanh và bộ chỉ huy tiền-phương 4 tại Non- Nước. Quân nhân thuộc Liênđoàn 5 LLÐB/HK và ban cố vấn Hải-quân.
Các hành quân vượt biên do BCH Bắc tổ chức nhắm vào miền bắc Việt-Nam và Lào. Những cuộc hành quân trong vùng nam Lào dưới danh hiệu Shining Brass bắt đầu từ năm 1965 nhằm phá-hoại đường dây xâm nhập người và vật liệu. Sau đó đổi tên là Prairie Fire, khi chuyển qua Nha Kỹ- Thuật cuộc hành quân lấy tên là Phù-Dung.
Như tất cả các cuộc hành quân thám-sát, BCH Bắc cũng có đơn-vị tiếp ứng gọi là đơn-vị Cảm- Tử đặc biệt. Ngoài ra còn thiết lập những căn cứ hành quân bí mật bên Thái Lan. Tuy nhiên, nhiệmvụ chính vẫn là trinh-sát, thâu thập tin tức tình báo chiến lược.
BỘ CHỈ HUY (CCC) SỞ TRUNG.
Bộ chỉ huy này đóng tại Kontum gồm quân của Liênđoàn 5 LLÐB/HK, có thời gian được xem như phần nớirộng hành quân của LÐ 5LLÐB. Khu vực trách nhiệm của bộ chỉ huy là tam giác Lào, Miên và Việt. Các cuộc hành quân lúc đầu lấy tên là Daniel Boone, sau đổi thành Salem House nhằm phá hoại căn cứ, kho tiếp-liệu che dấu của quân cộng-sản Bắc Việt, đặc biệt trong vùng đông-bắc Campuchia. Trong Bộ chỉ huy Trung có tất cả 30 toán thám-sát, mỗi toán gồm 3quân nhân LLÐB/HK và chín quân nhân Việt-Nam. Ngoài ra còn có bốn đại-đội khai thác, xử dụng tin tức do các toán thám-sát cung cấp trong các cuộc hành quân lùng và diệt.
BỘ CHỈ HUY (CCS) SỞ NAM.
Bộ chỉ huy này được thành lập vào tháng mười một năm 1967 đồn trú tại Ban-mê-Thuột. Bộ chỉ huy này nhỏ nhất trong các bộ chỉ huy của liên-đoàn Nghiên-cứu, Quansát (MACV-SOG). Khu vực hoạt động chính nơi đồng bằng Cửu Long và Campuchia. Ðơn-vị gồm có một số toán thám-sát và bốn đại đội khai thác. Do địa thế dưới vùng đồng bằng, các đại-đội khai thác thường xử dụng xuồng bay trong các cuộc hành quân tiếp ứng. Sự tham chiến của các quân nhân Hoa-Kỳ trong đơn-vị này chấm dứt vào tháng giêng năm 1973, tất cả các đơn-vị Hoa-Kỳ trở về nước.
IX. ÐOẠN KẾT.
Trong chiến tranh Việt-Nam, rất nhiều giai thoại nói về binh-chủng Lực-Lượng Ðặc-Biệt. Nhưng ít người hiểu biết tường tận, ngay cả đến những quân nhân phục vụ trong ngành LLÐB. Ðiều này không nên lấy làm lạ vì đó là đặc tính căn bản (Sống chết) của LLÐB... 'BÍ MẬT'. Nhiều đơn-vị có tên nghe rất lạ, Lôi-Hổ, Thám-sát, Sở Công-tác,liên-lạc, Biệt-kích v.v... Ðối với quân đội Hoa-Kỳ, các quân nhân LLÐB được coi như những chiến-sĩ can trường, được tuyển chọn và huấn luyện đầy đủ nhất. Trong QLVNCH, binh-chủng LLÐB Việt Nam gồm những chiến-sĩ can-đảm, gan-lì, đôi khi hơi bí-mật... Họ là những 'Bóng ma biên giới' đối với quân cộng sản. Binh chủng LLÐB đã đóng góp rất nhiều công lao, xương máu cho miền Nam tự do của chúng ta, mặc dầu những chiến công, sự chiến đấu của họ cũng thầm lặng... bí mật.
-Harry Pugh, U.S. Special Forces, C&D Enterprises, Arlington, VA. 1993 -Francis J. Kelly, The Green
Berets, Brassey Inc., New York, NY. 1991 -Special Forces and Missions, Time-Life books, Alexandria, VA.
Dallas, Cọp Khánh-Hòa